Bản án 458/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 458/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 08 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 178/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 04 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2020/QĐXX-ST ngày 10 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Th, sinh năm 1981 (có mặt);

Địa chỉ: ấp Đ, xã B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang;

Bị đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1982 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp Đ, xã B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang;

Tạm trú: ấp Quang Thọ, xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/4/2020 và quá trình giải quyết vụ án,lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Th trình bày:

Anh và chị Trần Thị M cưới nhau năm 2003 và có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Anh và chị M đã ly thân từ tháng 01/2019. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin được ly hôn với chị M.

Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013. Hiện 02 cháu đang sống với chị M, nếu Tòa cho ly hôn anh đồng ý để chị M tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên hòa giải ngày 07/7/2020, anh Th thay đổi yêu cầu về con chung:

sau khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Minh T yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi cháu Minh T mỗi tháng 750.000 đồng/tháng. Đối với việc chị M nuôi cháu Minh D, anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

Cháu Nguyễn Minh T đã đi học lớp 1 tại trường tiểu học Tân Hòa, xã B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Từ lúc ly thân đến nay anh không có về thăm hay trợ cấp gì 02 cháu Minh T và Minh D, nguyên nhân là do gia đình chị M không cho anh ghé thăm con, việc gia đình chị M không cho anh thăm con anh không có chứng cứ gì chứng minh.

Về thu nhập: Ngoài 100 gốc thanh long ở nhà, anh có đi làm thêm ở ngoài, ai thuê gì làm đó, ngày công là 200.000 đồng/ngày, do ai thuê gì làm đó nên anh không biết rõ thu nhập 01 tháng cụ thể là bao nhiêu.

* Theo bản tự khai ngày 11/6/2020, ngày 03/8/2020 và biên bản hòa giải ngày 11/6/2020 bị đơn chị Trần Thị M trình bày: Thống nhất lời trình bày của anh Th về thời gian, địa điểm kết hôn và quá trình chung sống như anh Th trình bày, hiện chị và anh Th không còn tình cảm, chị đồng ý ly hôn với anh Th.

Về con chung: Có 02 con chung gồm Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013. Hiện 02 cháu đang sống với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi cháu Minh T, mỗi tháng 1.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn anh Nguyễn Th yêu cầu được ly hôn với chị M, đồng ý để chị M tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013, anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cử mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Mâu thuẫn giữa anh Th và chị M đã trầm trọng, không thể hàn gắn được. Tại phiên tòa anh Th đồng ý để chị M tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013, không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Th, giao 02 cháu Nguyễn Minh D và cháu Nguyễn Minh T cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, buộc anh Th cấp dưỡng nuôi cháu Minh T theo mức quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng:

[1.1] Về sự vắng mặt của các đương sự:

Bị đơn chị Trần Thị M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[1.2] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp:

Anh Nguyễn Th và chị Trần Thị M tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 17 tháng 05 năm 2004 nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Th và chị M là hợp pháp.

Anh Th khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị M nên đây là vụ án “Ly hôn”. Xét nơi chị Trần Thị M cư trú, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật nội dung:

[2.1]. Xét yêu cầu của anh Nguyễn Th về việc yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị M, Hội đồng xét xử xét thấy:

Mâu thuẫn của anh Th và chị M phát sinh do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính cách, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh Th và chị M không còn chung sống từ tháng 01 năm 2019 đến nay, không quan tâm gì đến nhau.

Xét tình trạng vợ chồng của anh Th và chị M là trầm trọng, việc chung sống không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được, Hội đồng xét xử nhận thấy việc anh Th xin ly hôn với chị M là có cơ sở để chấp nhận.

[2.2]. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, Hội đồng xét xử xét thấy:

Anh Th và chị M có 02 con chung gồm cháu Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và cháu Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013. Hiện nay cháu Minh D và cháu Minh T đang sống cùng chị M tại ấp Quang Thọ, xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 03/6/2020, cháu Nguyễn Minh D khai: Từ khi cha là Nguyễn Th và mẹ là Trần Thị M không còn sống chung (tháng 01/2019) cho đến nay, cháu sống chung với mẹ tại ấp Quang Thọ, xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo. Từ đó đến nay cha không có ghé thăm hai đứa con, nên nếu cha mẹ không còn sống chung với nhau nữa, con xin được tiếp tục ở với mẹ.

Tại phiên tòa, anh Th đồng ý giao cháu Minh D và cháu Minh T cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng. Theo bản tự khai ngày 03/8/2020, chị Trần Thị M cũng có nguyện vọng xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Minh D và cháu Minh T.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay 02 cháu Minh D và cháu Minh T sống với chị M sức khỏe vẫn tốt, phát triển bình thường. Chị M có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, đảm bảo điều kiện để nuôi 02 cháu. Cháu Minh D cũng có nguyện vọng được ở với chị M, anh Th cũng đồng ý để chị M nuôi dưỡng cháu Minh D và cháu Minh T. Để đảm bảo về vật chất, tinh thần và sự phát triển bình thường của con chung, việc giao 02 con chung là cháu Minh D và cháu Minh T cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp.

[2.3] Về yêu cầu cấp dưỡng: Theo bản tự khai ngày 03/8/2020, chị M yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi cháu Minh T mỗi tháng 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

Trên cơ sở quy định của pháp luật Hội đồng xét xử xét thấy trách nhiệm nuôi con là của chung hai vợ chồng do vậy cần buộc anh Nguyễn Th có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình "Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đã thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".

Anh Th và chị M không tự thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con. Xét theo thu nhập thực tế căn cứ theo lời khai của anh Th, nhu cầu thiết yếu của cháu T, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc anh Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Minh T mỗi tháng 750.000 đồng là phù hợp.

Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Minh T đủ 18 tuổi, lao động được.

[2.4] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5] Về nợ chung: Không có.

[3] Về án phí:

Anh Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Căn cứ vào Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Th về việc xin ly hôn với chị Trần Thị M.

Về tình cảm: Anh Nguyễn Th được quyền ly hôn với chị Trần Thị M.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh D sinh ngày 12/10/2004 và cháu Nguyễn Minh T sinh ngày 12/11/2013 cho chị Trần Thị M nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Minh D và cháu Nguyễn Minh T đủ 18 tuổi, lao động được.

Không ai được cản trở cha mẹ thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Th cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Minh T mỗi tháng 750.000 đồng/tháng, thời gian thực hiện bắt đầu khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Nguyễn Minh T đủ 18 tuổi, lao động được.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ theo nội dung quyết định này thì hàng tháng phải trả tiền lãi theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Vì lợi ích của con chung khi cần thiết có thể thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Anh Th đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng số 0003599 ngày 24/4/2020, nên còn phải nộp tiếp 300.000 đồng.

3. Anh Nguyễn Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Trần Thị M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết họp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 458/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:458/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về