Bản án 45/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 45/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm đồng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 554/2020/TLPT- HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo K. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số:33/2020/HS-ST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: K, sinh năm 1974 tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Tổ 16, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Châu Mạ; Giới tính: Nam, Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: K’B, con bà Ka J, (hiện đều đã chết). Vợ: Hồ Thị Thanh H (đã ly hôn), vợ: Ka D, sinh năm 1969, có 05 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2012.

Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23-6-2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hoàng Thế N - Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; cáo trạng truy tố và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với thủ đoạn mua bán đá thiên thạch, nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, nên bị cáo Nguyễn H1 đã chuẩn bị sẵn các vật dụng như “mẫu thử bằng ống nhựa PVC để sẵn mỡ bò bên trong, 01 viên đá giả được làm bằng nhựa, các mẩu gương chưa bị nứt, ống thủy ngân chưa bị cô đặc, gương bị nứt, ống thủy ngân bị cô đặc lại được để trong ống nhựa PVC”, bị cáo H1 còn thuê đối tượng Nguyễn Đình Tập, Hoàng Anh Cương (thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng) làm giả giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu.

Sau khi chuẩn bị xong, bị cáo H1 thông qua người quen gặp các bị cáo K’P, K. Khi gặp nhau, bị cáo H1 bàn bạc với bị cáo K’P và K “tìm và giới thiệu người có nhu cầu mua đá thiên thạch để H1 cho thử hàng, đánh tráo mẫu thử và bị cáo H1 sẽ trích 30% số tiền chiếm đoạt được cho bị cáo K’P và bị cáo K”. Bản thân các bị cáo K’P và K biết bị cáo H1 không có đá thiên thạch, phải đánh tráo mẫu thử để lừa là có đá thật, nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng do bản thân cả hai đều đang cần tiền trả nợ nên đồng ý cùng tham gia.

Khoảng tháng 12-2018, ông Nguyễn Như C nghe được một số thông tin về đá thiên thạch có chức năng “hủy gương và làm đông đặc thủy ngân” nên tìm mua. Thông qua một người, ông C biết anh Văn Thế Ph (anh Ph và bị cáo K quen biết nhau từ trước và bị cáo K có nói với anh Ph nếu ai hỏi mua đá thiên thạch thì giới thiệu cho K), anh Ph đã giới thiệu ông C cho bị cáo K.

Đến khoảng đầu tháng 4-2019, bị cáo K’P gọi điện nói K “kiếm người mua đá của bị cáo H1 nặng khoảng 02 kg, còn sắp xếp thử hàng bị cáo H1 sẽ lo”. Bị cáo K liên lạc được với ông C và khoảng 02 ngày sau bị cáo H1 đến nhà bị cáo K’P.

Tại nhà bị cáo K’P, các bị cáo H1, K’P, K cùng bàn bạc cách lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông C. Bị cáo H1 phân công “bị cáo K thực hiện môi giới, dẫn dắt ông C đến cho bị cáo H1”, “bị cáo K’P đi cùng với bị cáo H1 chọn địa điểm vắng người tại nghĩa trang để thử hàng và chở bị cáo H1 gặp ông C và thử hàng”. Các bị cáo K’P, K chịu trách nhiệm nói chuyện để tạo lòng tin cho ông C biết bị cáo H1 là người có đá thiên thạch thật; bị cáo H1 sẽ là người thực hiện cho ông C thử hàng và đánh tráo mẫu thử. Ngoài ra, các bị cáo còn bàn bạc thống nhất “khi gặp ông C thì gọi H1 tên giả “là Huy và anh Hai”, còn bị cáo K sử dụng “tên giả là K'Viên”, bị cáo K’P sử dụng “tên giả là K'Míc”, nhằm mục đích sau khi việc mua bán đá xong người mua đá thiên thạch sẽ không biết, cơ quan Công an sẽ không tìm ra.

Sau khi đã bàn bạc thống nhất, bị cáo K sử dụng tên K’Viên đã liên hệ với ông C đến thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm để xem và thử hàng đá thiên thạch. Ông C cùng một người bạn từ Thành phố Hồ Chí Minh đã đến huyện Bảo Lâm để gặp các bị cáo H1, K, K’P. Khi đi gặp ông C, bị cáo K rủ thêm anh K'J, còn bị cáo K’P rủ thêm anh K'N cùng đi.

Khi gặp nhau, hai bên bàn bạc về việc mua bán đá thiên thạch, bị cáo H1 cho ông C xem mẫu gương bị nứt bị cáo H1 đã chụp trong điện thoại, đưa ra giá 300.000.000USD/kg, ông C yêu cầu được xem và thử hàng mới đồng ý mua. Do vậy, bị cáo H1, K’P đi trước để chuẩn bị cho việc thử hàng; bị cáo H1 tự đi xe máy đến Nghĩa trang tại thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm; bị cáo K’P nhờ anh K'N chở xe máy, bị cáo K nhờ anh K'J chở xe máy và dẫn đường để ông C cùng người bạn đến nghĩa trang.

Để chuẩn bị cho việc thử hàng, bị cáo H1 đã chuẩn bị “một ống nhựa bên trong có viên đá thiên thạch giả được bịt hai đầu, một đầu đã bọc kín bên trong có sẵn kính bị hủy và Thủy ngân bị cô đặc, còn một đầu để mở và có kính và Thủy ngân bình thường” sau đó cho ông C xem mẫu vật.

Trong quá trình giả khấn vái, bị cáo H1 đã đánh tráo mẫu thử giả, sau đó bị cáo H1 trực tiếp mở ống nhựa và lấy mẫu thử cho ông C xem; ông C tin là đá thật và không nghi ngờ. Quá trình bị cáo H1 thử hàng, các bị cáo K’P và bị cáo K đều có mặt và biết việc bị cáo H1 đã đánh tráo mẫu thử, làm cho ông C tin đá thiên thạch và đồng ý mua nhưng ông C chỉ đồng ý mua với giá 250.000.000 USD/kg và hẹn ngày 20-4-2019 sẽ đặt cọc mua đá Thiên thạch. Bị cáo H1 yêu cầu ông C đưa cho bị cáo H1 số tiền 4.500.000đ để bị cáo H1 làm lễ cúng thần linh và hẹn ngày 20-4-2019 đặt cọc mua bán. Số tiền 4.500.000đ bị cáo H1 cho bị cáo K’P 1.000.000đ và sau đó bị cáo K’P cho lại anh K'N 500.000đ; bị cáo H1 cho bị cáo K số tiền 1.000.000đ và sau đó K cho lại anh K'J 500.000đ; số tiền còn lại 2.500.000đ bị cáo H1 giữ lại.

Sau khi thực hiện hành vi xong, các bị cáo về lại nhà K’P. K’P hỏi bị cáo H1 về cách tráo mẫu nhưng H1 không cho biết.

Đến ngày 19-4-2019, bị cáo H1 điện thoại nói bị cáo K’P và bị cáo K cùng đi xuống đèo Khánh Vĩnh, thuộc tỉnh Khánh Hòa để nhận tiền cọc của ông C. Đến ngày 20-4-2019, các bị cáo H1, K’P và K dẫn ông C và ông Hùng đến nhà anh Nguyễn P (số 9/9 thôn Trường L, xã Diên L, huyện Diên K, tỉnh Khánh Hòa) để thực hiện việc giao nhận tiền cọc.

Tại nhà anh P, ông C đã giao cho nhóm của bị cáo H1 số tiền 1.000.000.000đ, khi nhận tiền cọc, bị cáo H1 dùng tên giả “Lê Phước Huy”, với Chứng minh nhân dân giả, sổ hộ khẩu giả ký giấy cọc; bị cáo K ký tên vào giấy nhận cọc “với tên giả K'Viên”.

Số tiền 1.000.000.000đ chiếm đoạt của ông C, bị cáo H1 chia cho bị cáo K 150.000.000đ; K đã xin và bị cáo H1 cho thêm số tiền 30.000.000đ để gửi cho anh Văn Thế Ph; chia cho bị cáo K’P số tiền 150.000.000đ; bị cáo H1 cho ông Nguyễn P số tiền 20.000.000đ; Số tiền còn lại bị cáo H1 cất giữ sử dụng một mình.

Khi đến ngày hẹn, ông C phát hiện bị nhóm của bị cáo H1 lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã làm đơn tố cáo gởi đến Cơ quan Công an các bị cáo chiếm đoạt số tiền 1.004.500.000đ.

Tại Kết luận giám định số 1654/GĐ-PC09 ngày 04-11-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận “Chữ ký, chữ viết trên giấy nhận tiền cọc ngày 20-4-2019, so với chữ viết, chữ ký của bị cáo H1 là do cùng một người ký và viết ra”.

Kết luận giám định số 729/GĐ-PC09 ngày 11-5-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận “Chữ ký, chữ viết trên giấy nhận tiền cọc ngày 20-4-2019, so với với chữ viết, chữ ký của bị cáo K là do cùng một người ký và viết ra”.

Về tang vật thu giữ:

+ Thu giữ của bị cáo K: 01 Chứng minh nhân dân số hiệu 250362077 mang tên K; 01 điện thoại di động hiệu OPPO (màu xanh);

+ Thu giữ của bị cáo H1 01 Chứng minh nhân dân số hiệu 285585403 mang tên Nguyễn H1; 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung (màu vàng nhạt bên trong kèm 02 sim); 01 điện thoại di động hiệu Microsoft (màu đen bên trong có 02 sim); 01 điện thoại di động hiệu Nokia phím bấm, mặt lưng màu đen (không hoạt động); 01 điện thoại di động hiệu SamSung (màu đen vỡ mặt kính); 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy S III (màu đen không hoạt động); 01 điện thoại nắp gập (màu đen đề SH 703i máy không hoạt động); 03 thẻ sim Mobifone; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn H1; 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Nguyễn H1; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô xe máy mang tên Nguyễn H1;

- 01 tờ CMND (đã bị rách dán lại mang tên Huỳnh Ngọc Hương mặt sau đề ngày 07/4/2009 của Công an Khánh Hòa); 01 tờ giấy CMND đề tên Yang Siêng không có hình; 01 tờ giấy có ghi đề tên giấy CMND số 220271678 có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 23-6-2019;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số 010712, biển số 93E1-101.16 mang tên Quách Thị Liễu; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Future biển số 93E1-101.16;

- 01 bịch ny lon màu đen bên trong có 02 gương hình chữ nhật (kích thước 06x08cm), 01 hộp có đề tên OMERAZ 20 (màu xanh bên trong hộp có chứa đựng 06 miếng loại gương kính mặt gương đã bị rạn dấu chân chim, mặt sau màu xám bạc đều có kích thước 08x07cm); 01 ống hình trụ (nắp màu xanh độ dài 04 cm bên trong có đựng bột màu bạc, kiểu dạng ống vani);

- 01 bịch ny lon màu đen bên trong có chứa đựng 01 gương kính (mặt lưng màu vàng kính thước 07x10cm);

- 01 gương kích thước 8,2x5,5cm cùng một tờ giấy đỏ bọc lại; 01 gương kính kích thước 7,9x05cm phía sau có ghi chữ "mẫu không bán"; 01 tờ giấy trắng bao bọc lại;

- 04 hộp nhỏ đề tên TOKYO bên trong có đựng nhiệt kế nắp màu xanh; 01 hộp nhỏ hiệu AURORA bên trong đựng một nhiệt kế nắp vỏ màu đỏ; 01 hộp nhỏ hiệu TOKYO THEMO bên trong đựng một nhiệt kế đầu nắp màu xanh; 01 nhiệt kế nắp màu đỏ; 01 nhiệt kế nắp màu đỏ bên trong bị đục; 01 hộ chiếu số B7260452 mang tên Nguyễn H1;

- 01 Sổ hộ khẩu có dấu đỏ, chữ ký đóng dấu tên Phạm Công Lam (có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 ngày 23-6-2019) - 03 tờ giấy đề bản cam kết có ghi nội dung (được đánh số thứ tự từ 1 đến 3 có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 ngày 23-6-2019) - 04 tờ mẫu giấy ủy quyền, phiếu yêu cầu chuyển tiền chưa có ghi nội dung (được đánh số thứ tự từ 2 đến 4 có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 ngày 23-6- 2019);

- 04 hợp đồng mua bán đá thiên thạch mua bán kim loại quý chuyển nhượng thiên thạch; văn bản thỏa thuận (được đánh số từ 1 đến 4 có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 đề ngày 23-6-2019);

- 07 biên nhận chuyển tiền (đánh số từ 1 đến 7 có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1 ngày 23-6-2019);

- 12 mẫu hợp đồng giao nhận chưa có nội dung (được đánh số từ 01 đến 12 có chữ ký xác nhận Nguyễn H1 đề 23-6-2019);

- 02 giấy nộp tiền đề tên người nộp Nguyễn H1; 01 chứng từ giao dịch; 01 phiếu nhập kho, 01 hợp đồng thế chấp QSD đất đề tên Nguyễn H1;

- 01 tờ photo có ghi nội dung có chữ ký xác nhận Nguyễn H1; 01 tờ giấy có ghi nội dung có chữ ký xác nhận của Nguyễn H1; 01 sơ yếu lý lịch đề tên Nguyễn H1; 01 tờ giấy ghi list số điện thoại;

- Các bản photo CMND mang tên Nguyễn H1, Ka Bit, bản photo sổ hộ khẩu mang tên Ka Tuân, Nguyễn H1.

+ Đồ vật, tài liệu tạm giữ của K’P gồm có: 01 hợp đồng mua bán đá thiên thạch loại giấy A4 màu hồng gồm 05 trang (được đánh số từ 1 đến 5 có chữ ký xác nhận của K’P);

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần thể hiện nội dung Công ty cổ phần đầu tư quốc tế gồm 3 trang (đánh số thứ tự từ 1 đến 3 có chữ ký xác nhận của K’P);

+ 01 mẫu giấy ủy quyền thể hiện nội dung K'Nis được chuyển giao vật gia bảo; 01 (một) hợp đồng mua bán kim loại quý gồm 02 trang đánh số 1 đến 2 thể hiện nội dung bên bán và bên mua giữa K'Nis và Hồ Thu có chữ ký xác nhận của bên mua và bán;

+ 01 (một) GPLX số AQ984734 mang tên K’P hạng A1; 01 (một) CMND mang tên K’P số 250405768; 01 (một) ĐTDĐ Nokia màu đen phím; 01 (một) khối kim loại kích thước 7,5x5x6cm có hình dạng không nhất định có hình hai con rùa chồng lên nhau màu đen được niêm phong bằng giấy vở học sinh bút cầu.

Quá trình điều tra, gia đình bị cáo K’P đã nộp lại số tiền 100.000.000đ; gia đình bị cáo H1 đã nộp lại số tiền 250.000.000đ; gia đình bị cáo K đã nộp lại số tiền 150.000.000đ. Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho ông C số tiền 350.000.000đ; còn lại số tiền 150.000.000đ hiện đang được tạm gửi tại tài khoản của Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng.

Đối với hành vi làm các giấy tờ giả do bị cáo H1 yêu cầu các đối tượng Nguyễn Đình Tập, Hoàng Anh Cương, Đinh Văn Vinh. Tuy nhiên đến nay Cơ quan điều tra không thu giữ được các giấy tờ giả như chứng minh, hộ khẩu mà H1 đã sử dụng để lừa đảo chiếm tài sản của ông C, nên Cơ quan điều tra đã tách ra để xử lý sau.

Đối với anh anh K’J, anh K’N và anh Nguyễn P không biết các bị cáo thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của ông C nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

Đối với Văn Thế Ph chưa xác định được Ph ở đâu, nên Cơ quan điều tra đã tách ra để làm rõ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKS-P2 ngày 06-7-2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã truy tố các bị cáo Nguyễn H1, bị cáo K’P và bị cáo K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt BLHS năm 2015).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:

Tuyên bố bị cáo K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm a khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo K 12 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 23-6-2019 Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn H1, K’P, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/9/2020, bị cáo K có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo K thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ bị cáo là người có công với cách mạng, được tặng huân chương. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm, đồng thời bồi thường thêm cho bị hại số tiền 1.000.000 đồng.

Người bào chữa cho bị cáo, Luật sư Hoàng Thế N phát biểu ý kiến: Bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, tự nguyện bồi thường thêm cho bị hại 1.000.000 đồng, tổng cộng là 151.000.000 đồng. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đã phải bán nhà để lấy tiền bồi thường cho bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo bồi thường thêm 1.000.000 đồng cho bị hại nhưng đây cũng không phải là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo K là phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, với lời khai bị hại, của người liên quan, kết luận giám định, vật chứng thu giữ. Qua lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[1.1] Biết rõ đá thiên thạch là không có thật nhưng với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua thủ đoạn mua bán, Nguyễn H1 bàn bạc với K’P, K tìm người mua đá thiên thạch để H1 cho thử hàng và đánh tráo mẫu thử nhằm chiếm đoạt tiền; số tiền chiếm đoạt bị cáo H1 chia 30% cho các bị cáo K’P, bị cáo K.

Khoảng tháng 12-2018, bị hại Nguyễn Như C có nhu cầu tìm mua đá thiên thạch, thông qua anh Văn Thế Ph đã được giới thiệu với bị cáo K. Sau khi liên lạc với bị hại, bị cáo thông báo cho đồng bọn là Nguyễn H1 và K’P để cùng bàn bạc phương án lừa đảo. Cả nhóm thống nhất gọi bị cáo H1 tên giả là “Huy” và “anh Hai”, bị cáo K sử dụng tên giả là “K'Viên”, bị cáo K’P sử dụng tên giả là “K'Míc”, nhằm mục đích sau khi chiếm đoạt tiền Cơ quan Công an sẽ không tìm ra.

Bị cáo K sử dụng tên “K’Viên” đã liên hệ với bị hại đến thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm để xem và thử hàng đá thiên thạch, nên bị hại đến huyện Bảo Lâm gặp nhóm của bị cáo.

Sau khi gặp nhau, bàn bạc, thống nhất địa điểm thử đá thiên thạch là nghĩa trang thị trấn Lộc Thắng, bị cáo K rủ thêm anh K’J cùng đi. Trong quá trình thử hàng đá thiên thạch, bị cáo H1 đã thực hiện hành vi gian dối đánh tráo mẫu thử làm cho bị hại tin là đá thiên thạch thật nên đồng ý mua với giá 250.000.000USD/kg. Bị cáo H1 yêu cầu bị hại ông C đưa cho bị cáo số tiền 4.500.000đ để làm lễ cúng thần linh; thống nhất ngày 20-4-2019 đặt cọc mua bán.

Số tiền 4.500.000đ bị cáo H1 cho bị cáo K’P và K mỗi người 1.000.000đ. Đến ngày 19-4-2019, bị cáo H1 điện thoại và thống nhất với bị cáo K’P, bị cáo K đến đèo Khánh Vĩnh, thuộc tỉnh Khánh Hòa để nhận tiền cọc do bị hại giao; khi đến khu vực đèo Khánh Vĩnh, cả nhóm cùng bị hại đến nhà anh Nguyễn P. Tại đây, bị hại ông C đã giao cho bị cáo H1 số tiền 1.000.000.000đ, được ghi giấy tay, bị cáo H1 dùng tên giả “Lê Phước Huy”, với Chứng minh nhân dân giả, sổ hộ khẩu giả để ký giấy; bị cáo K ký tên vào giấy nhận cọc với tên giả “K'Viên”. Sau khi chiếm đoạt tiền, bị cáo H1 chia cho bị cáo K 150.000.000đ; bị cáo K đã xin thêm số tiền 30.000.000đ để gửi cho anh Ph.

[1.2] Bản thân bị cáo K biết Nguyễn H1 không có đá thiên thạch, phải đánh tráo mẫu thử để lừa là có đá thật, nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng vẫn giúp sức cho bị cáo H1 thực hiện hành vi lừa đảo. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo K là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

[3.1] Đây là vụ án đồng phạm, giữa bị cáo K và các bị cáo khác có sự câu kết chặt chẽ khi có sự bàn bạc, thống nhất kế hoạch phạm tội, phân công vai trò và chuẩn bị phương án nhằm che giấu tung tích (sử dụng tên giả) nên thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức và là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo K như thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại số tiền 150.000.000đ/180.500.000đ chiếm đoạt và có cha là ông K’B có thành tích cống hiến được nhà nước tặng thưởng Huân chương theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự

[3.2] Như vậy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đúng tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, phân hóa vai trò của bị cáo K, xử phạt bị cáo 12 năm tù, bằng mức khởi điểm của khung hình phạt quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là không nặng; mức hình phạt trên là thỏa đáng, tương xứng với hành vi, vai trò và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo K đã tự nguyện nộp tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm, đồng thời bồi thường thêm cho bị hại số tiền 1.000.000 đồng nhưng các tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K cũng như đề nghị của người bào chữa, và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo K phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2020/HS-ST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

[1] Tuyên bố bị cáo K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo K 12 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 23-6-2019. Tiếp tục giam bị cáo K để đảm bảo thi hành án.

[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo K phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:45/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về