Bản án 45/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2020/HSST, ngày 27/04/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2020/HSST- QĐ ngày 14 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn A (tên gọi khác: AA) Sinh năm: 1993; Giới tính: nam.

Nơi ĐKNKTT: khu phố B, phường C, TP. PT, BT. Chỗ ở: khu phố D, phường E, TP. PT, tỉnh BT.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm thuê. Cha: ông Lê Văn G (chết).

Mẹ: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; Nghề nghiệp: Nội trợ. Vợ: Mai Thị Hồng I, sinh năm 1994; Nghề nghiệp: Bán vé số. Con: Mai Thị Mỹ J, sinh năm 2012.

Con: Mai Thị Mỹ K, sinh năm 2016.

Cùng trú tại: khu phố B, phường C, TP. PT, BT.

Anh chị em ruột: Có 04 anh, chị em. Bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án: Ngày 29/7/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố PT xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2014/HSST), chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 23/8/2015. Đối với phần án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm của Bản án số 142/2014, A chưa chấp hành.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 09/4/2007, bị Uỷ ban nhân dân thành phố PT ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 2267 về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

+ Ngày 10/7/2009, bị Uỷ ban nhân dân thành phố PT ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 803 về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố PT.

Những người bị hại:

1. Trần Văn L, sinh năm 1998; vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố M, phường N, TP PT, tỉnh BT.

2. Lê Công O, sinh năm 1998, vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố P, phường Q, TP. PT, tỉnh BT.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Trịnh Văn R, sinh năm 1968, vắng mặt.

Địa chỉ: khu phố D, phường S, TP. PT, tỉnh BT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 10/10/2019 đến ngày 12/02/2020, Lê Văn A đã 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố PT. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 10/10/2019, A đang đi bộ trên các tuyến đường thuộc khu phố M, phường N, nhằm tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp thì phát hiện nhà anh Trần Văn L (sinh năm 1998), hai cánh cửa cổng được khép bằng cách cột dây cước nên A đã dùng 01 cây kéo nhặt được ở thùng rác gần đó, cắt các dây cước này rồi mở cổng đi vào nhà. A quan sát thấy dưới nền nhà có bà Trần Thị T (bà nội anh L) đang ngủ trong mùng, bên cạnh có 01 chiếc điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen. A lén lút cầm chiếc điện thoại này lên tay. Cùng lúc này, A nghe chuông tin nhắn của 01 chiếc điện thoại khác, A bật đèn pin của chiếc điện thoại Nokia vừa chiếm đoạt được, rọi tìm thì phát hiện 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo, màu xanh đen và 01 chiếc điện thoại hiệu Oppo màu tím, đang sạc pin dưới nền nhà, bên ngoài mùng. A rút 02 chiếc điện thoại này ra khỏi dây sạc, cầm lên tay rồi theo lối cũ tẩu thoát ra ngoài. Khi đi bộ đến đường U, A bị Công an phường V kiểm tra hành chính và đưa về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên (bút lục số 46 – 47; 50; 52; 54 – 59; 129 - 139).

Tại Kết luận định giá tài sản số 224/KL- HĐĐG ngày 22/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố PT kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu tím; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen. Tổng giá trị tài sản là 5.760.000 đồng (bút lục số 36).

Vật chứng của vụ án:

01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen, số Imei 1: 864164044728698, số Imei 2: 864164044728680; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu tím, số Imei 1:

861570045718517; số Imei 2: 861570045718509; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 359229/89/727758/4 do Lê Văn A giao nộp. Cơ quan CSĐT- Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bị hại 03 chiếc điện thoại di động. Anh L đã nhận lại các tài sản trên và không yêu cầu gì về dân sự (bút lục số 40 – 42; 58).

Đối với 01 cây kéo dài 16 cm, cán màu tím mà A đã sử dụng làm công cụ phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố PT bảo quản, chờ xử lý.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 12/02/2020, Lê Văn A đi bộ từ nhà Nguyễn Thị W (tên gọi khác là X, sinh năm 1998, trú tại khu phố M, phường E) đến khu phố P, phường Q, nhằm tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp thì phát hiện nhà anh Lê Công O (sinh năm 1998), có vòng thành thấp, dễ dàng đột nhập nên A đã leo qua vòng thành để vào bên trong sân. A quan sát thấy phía trên hai cánh cửa chính nhà anh O có hở ra 01 khoảng trống, không chốt khóa; phía dưới hai cánh cửa, tuy có chốt khóa nhưng cũng hở ra 01 khoảng trống khoảng 02 cm nên A đã dùng 02 ngón tay đẩy chốt, mở cửa ra rồi đi vào trong, lục kiếm tài sản. Tại tầng trệt, A phát hiện 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen để trên nóc tủ gỗ nên A lấy bỏ vào túi quần, rồi đi lên tầng 01, tiếp tục tìm kiếm tài sản. Lúc này, A thấy anh O cùng 02 người bạn của anh O đang nằm ngủ trên nền nhà, bên cạnh có để 01 điện thoại hiệu Oppo A3S, 01 điện thoại hiệu Samsung Note 9 và 01 điện thoại hiệu Nokia 6. A lấy 03 điện thoại này bỏ vào túi quần rồi về nhà W ngủ. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, A cầm 04 điện thoại đã chiếm đoạt được đi bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến cầu Y, A bán 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen cho 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ nhân thân, địa chỉ) với giá 100 ngàn đồng. Tiếp đến, A đến tiệm cầm đồ Z, số 78B, trên đường BB, do anh Trịnh Văn R (sinh năm 1968, trú tại khu phố D, phường S) làm chủ, bán chiếc điện thoại Oppo A3S với giá 1.000.000 đồng và chiếc Samsung với giá 3.000.00 đồng. Còn chiếc điện thoại Nokia 6, A để lại sử dụng. Số tiền bán điện thoại trộm cắp có được, A mua ma túy và chơi game bắn cá hết. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Công an phường Q phối hợp với Công an phường C mời A về làm việc. Tại cơ quan Công an, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên (bút lục 93; 97 – 102; 140 – 144).

Tại Kết luận định giá tài sản số 31/KL- HĐĐG ngày 28/02/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố PT kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S, số Imei: 86934703205919; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9, số Imei: 35745109269934/1; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358020086692264 có tổng giá trị tài sản là 21.600.000 đồng (bút lục số 87).

Đối với chiếc điện thoại Nokia màu đen mà A đã bán cho một người đàn ông tại cầu Y. Trong quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra chưa thu hồi được. Anh O hiện cũng không còn giữ các giấy tờ mua bán của chiếc điện thoại này, do đó, không có căn cứ để định giá tài sản.

Vật chứng của vụ án:

01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358020086692264 do A giao nộp; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S, số Imei: 86934703205919 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9, số Imei: 35745109269934/1 do anh Trịnh Văn R giao nộp. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại các điện thoại trên cho bị hại. Anh O đã nhận lại các tài sản này (bút lục số 83 - 84).

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Anh Lê Công O không yêu cầu A bồi thường gì về dân sự (bút lục số 101 - 103).

Ông Trịnh Văn R yêu cầu A bồi thường 04 triệu đồng - số tiền ông R đã dùng để mua chiếc điện thoại Oppo A3S và chiếc điện thoại Samsung Note 9 (bút lục số 104 - 106). Hiện A chưa bồi thường.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 50/CT/VKS-PT, ngày 24/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn A phạm tội về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn A từ 18 đến 30 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/02/2020.

Về tang vật chứng: 1/01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen, số Imei 1: 864164044728698, số Imei 2: 864164044728680; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu tím, số Imei 1:

861570045718517; số Imei 2: 861570045718509; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 359229/89/727758/4 do Lê Văn A giao nộp. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bị hại 03 chiếc điện thoại di động. Anh L đã nhận lại các tài sản trên và không yêu cầu gì về dân sự.

2/01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358020086692264 do A giao nộp; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S, số Imei: 86934703205919 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9, số Imei: 35745109269934/1 do anh Trịnh Văn R giao nộp. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại các điện thoại trên cho bị hại. Anh O đã nhận lại các tài sản này.

Đối với 01 cây kéo dài 16 cm, cán màu tím mà bị cáo A đã sử dụng làm công cụ phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

* Ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Trịnh Văn R có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A.

* Ý kiến của người bị hại:

Anh Lê Công O và Trần Văn L có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự và đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân dân thành phố PT: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Văn A đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 50/CT/VKS-PT, ngày 24/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, trong thời gian từ ngày 10/10/2019 đến ngày 12/02/2020, Lê Văn A đã 02 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố PT.

Lần thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 10/10/2019, A đi bộ trên đường thuộc khu phố M, phường N nhằm tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp thì phát hiện nhà anh Trần Văn L, hai cánh cửa cổng được khép bằng cách cột dây cước nên A đã dùng 01 cây kéo nhặt được ở thùng rác gần đó, cắt các dây cước này rồi mở cổng đi vào nhà. A quan sát thấy dưới nền nhà có bà Trần Thị T đang ngủ trong mùng, bên cạnh có 01 chiếc điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen. A lén lút cầm chiếc điện thoại này lên tay. Cùng lúc này, A nghe chuông tin nhắn của 01 chiếc điện thoại khác, A bật đèn pin của chiếc điện thoại Nokia vừa chiếm đoạt được, rọi tìm thì phát hiện 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo, màu xanh đen và 01 chiếc điện thoại hiệu Oppo màu tím, đang sạc pin dưới nền nhà, bên ngoài mùng. A rút 02 chiếc điện thoại này ra khỏi dây sạc, cầm lên tay rồi theo lối cũ tẩu thoát ra ngoài. Khi đi bộ đến đường U, A bị Công an phường V kiểm tra hành chính và đưa về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Lần thứ hai: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 12/02/2020, Lê Văn A đi bộ từ nhà Nguyễn Thị W ở khu phố M, phường E, đến khu phố P, phường Q, nhằm tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp, A đã leo qua vòng thành để vào bên trong sân nhà anh Lê Công O. A quan sát thấy phía trên hai cánh cửa chính nhà anh O có hở ra 01 khoảng trống, không chốt khóa; phía dưới hai cánh cửa, tuy có chốt khóa nhưng cũng hở ra 01 khoảng trống khoảng 02 cm nên A đã dùng 02 ngón tay đẩy chốt, mở cửa ra rồi đi vào trong, lục kiếm tài sản. Tại tầng trệt, A phát hiện 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen để trên nóc tủ gỗ nên A lấy bỏ vào túi quần, rồi đi lên tầng 01, tiếp tục tìm kiếm tài sản. Lúc này, A thấy anh O cùng 02 người bạn của anh O đang nằm ngủ trên nền nhà, bên cạnh có để 01 điện thoại hiệu Oppo A3S, 01 điện thoại hiệu Samsung Note 9 và 01 điện thoại hiệu Nokia 6. A lấy 03 điện thoại này bỏ vào túi quần rồi về nhà W ngủ. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, A cầm 04 điện thoại đã chiếm đoạt được đi bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến cầu Y, A bán 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen cho 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ nhân thân, địa chỉ) với giá 100 ngàn đồng.

Tiếp đến, A đến tiệm cầm đồ Z, do ông Trịnh Văn R làm chủ, bán chiếc điện thoại Oppo A3S với giá 1.000.000 đồng và chiếc Samsung với giá 3.000.00 đồng. Còn chiếc điện thoại Nokia 6, A để lại sử dụng. Số tiền bán điện thoại trộm cắp có được, A mua ma túy và chơi game bắn cá hết. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Công an phường Q phối hợp với Công an phường C mời A về làm việc. Tại cơ quan Công an, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Vì vậy, Cáo trạng số 50/CT/VKS-PT, ngày 24.4.2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT truy tố bị cáo Lê văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Lê văn A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo là con nghiện, sử dụng số tiền do trộm cắp mà có để mua ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo đã phạm tội trộm cắp hai lần, tài sản là 06 cái điện thoại di động tổng giá trị 27.360.000 đồng, với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải tuyên phạt bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lê Văn A phạm tội trong trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra bị cáo Lê Văn A đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần đều cấu thành tội phạm độc lập nên thuộc trường hợp “Phạm tội hai lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 09/4/2007, bị Uỷ ban nhân dân thành phố PT ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 2267 về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; Ngày 10/7/2009, bị Uỷ ban nhân dân thành phố PT ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 803 về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo mồ côi cha, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các con còn nhỏ, trình độ học vấn không biết chữ, nhận thức rất hạn chế nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Văn R là người trực tiếp mua hai chiếc điện thoại do A trộm cắp mà có, ông R không biết đây là tài sản trộm cắp nên không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Trong quá trình điều tra ông R yêu cầu A bồi thường 04 triệu đồng là số tiền ông R đã dùng để mua chiếc điện thoại Oppo A3S và chiếc điện thoại Samsung Note 9, nay ông đã có đơn không yêu cầu bị cáo A bồi thường nên HĐXX không xét.

[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT về việc áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

1/Cơ quan CSĐT - Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng:

Trả lại cho bị hại Trần Văn L: 03 chiếc điện thoại di động. 01 chiếc hiệu Vivo, màu đen, số Imei 1: 864164044728698, số Imei 2: 864164044728680; 01 chiếc hiệu Oppo, màu tím, số Imei 1: 861570045718517; số Imei 2: 861570045718509; chiếc còn lại hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 359229/89/727758/4 do Lê Văn A giao nộp, anh L đã nhận lại các tài sản trên và không yêu cầu gì về dân sự.

Trả lại cho bị hại Lê Công O: 03 chiếc điện thoại di động. 01 chiếc hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358020086692264 do A giao nộp; 01 chiếc hiệu Oppo A3S, số Imei: 86934703205919 và chiếc còn lại hiệu Samsung Note 9, số Imei:

35745109269934/1 do ông Trịnh Văn R giao nộp, anh O đã nhận lại các tài sản này và không yêu cầu gì về dân sự.

* Biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kéo dài 16 cm, cán màu tím (Như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/4/2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố PT và Công an thành phố PT).

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: bị cáo Lê Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Lê Văn A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14.02.2020.

[2] Biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 cây kéo dài 16 cm, cán màu tím (Như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/4/2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố PT và Công an thành phố PT).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

[4] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Lê Văn A, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/5/2020). Các bị hại, người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về