TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ Q VÀ ANH N
Trong ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 291/2020/TLST-HNGĐ, ngày 05 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐST-HN, ngày 03/9/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Kim Q, sinh năm 1981; Địa chỉ: Ấp B S, xã N T, huyện C N, tỉnh Trà Vinh. Có mặt Bị đơn: Anh Đỗ Bá N, sinh năm 1982; Địa chỉ: Ấp NL, xã N T, huyện C N, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
Con chung của chị Q và anh N tên: Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các bản khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị Kim Q trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Bá N do mai mối và tìm hiểu đến năm 2009 xác lập quan hệ hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND xã NT, huyện C N, tỉnh Trà Vinh, thời gian chung sống chị và anh N có 02 con chung tên Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018 hiện đang sống với chị, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 anh N tự ý bỏ nhà đi và vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay tình cảm vợ chồng không còn. Nay chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Bá N.
- Về con chung tên: Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018 chị Q yêu cầu được nuôi.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q không tranh chấp, không khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Chị Q không tranh chấp, không khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về số nợ phải thu, phải trả: Chị Q không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Đỗ Bá N vắng mặt lần thứ nhất và có đơn xin xét xử vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tại các bản khai, tại phiên tòa cháu Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 ý kiến: Nay mẹ con Ngô Thị Kim Q và cha con tên Đỗ Bá N ly hôn với nhau con có nguyện vọng được sống chung với mẹ Q.
Lời phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về việc tuân theo pháp luật: Về thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt đầy đủ cho các đương sự nhận. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Q, xử cho chị Q được ly hôn với anh N, về con chung giao cho chị Q tiếp tục nuôi dưỡng con Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018 chị Q không yêu cầu anh Ncấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Ngoài ra về tài sản chung do chị Q không khởi kiện nên không xem xét giải quyết, về số nợ phải thu, phải trả không yêu cầu nên không xem xét, án phí chị Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn anh Đỗ Bá N có nơi cư trú trên địa bàn huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang theo quy định tại Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn của chị Ngô Thị Kim Q khởi kiện xin ly hôn với anh Đỗ Bá N và yêu cầu nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Kim Q và anh Đỗ Bá N xác lập quan hệ hôn nhân năm 2009 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào các Điều 08 và Điều 09 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân của chị Q và anh N là hợp pháp.
Xét thấy quá trình chung sống giữa chị Q và anh N tuy chưa thống nhất nhau về quan điểm đời sống vợ chồng, lối sống, về cách ứng xử giao tiếp thì anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, cùng nhau góp ý xây dựng, chia sẽ và tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách êm đẹp nhất nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình. Khi mâu thuẫn phát sinh chị Q và anh N đều bỏ mặt cho hậu quả xảy ra, không còn quan tâm đến tình nghĩa vợ chồng, thời gian ly thân anh chị cũng không quan tâm đến cuộc sống gia đình làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạng nức. Tòa án đã hòa giải 02 lần để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh N vắng mặt lần nhất có đơn xin xét xử vắng mặt, từ đó cho thấy việc hàn gắn đoàn tụ tình cảm vợ chồng là không có kết quả.
Tại phiên tòa hôm nay chị Q xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Q xin được ly hôn với anh N là có căn cứ, đúng quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Q, xử cho chị Q và anh N được ly hôn với nhau.
Về nuôi con: Xét thấy cháu Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018 là con của chị Q và anh N, trong thời gian vợ chồng ly thân, cháu N và cháu G sống với chị Q, được chị Q nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo về mọi mặt và theo nguyện vọng của cháu N được sống với chị Q. Tại phiên tòa chị Qxin được quyền nuôi dưỡng con chung, để cháu N và cháu G có cuộc sống ổn định về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018 cho chị Q được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con: Tòa án đã giải thích Điều 107 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn nhưng chị Q không tranh chấp, không khởi kiện không đặt ra yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Q không khởi kiện, không tranh chấp, Hội đồng xét xử không xem xét.
Về số nợ phải thu, phải trả: Chị Q không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét.
nhận.
[3] Về án phí sơ thẩm: Chị Q phải nộp tiền án phí theo quy định pháp luật. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 01 Điều 28, 35, 39, Điều 147, 228, 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Kim Q.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị Kim Q và anh Đỗ Bá N được ly hôn với nhau.
Về nuôi con: Chị Ngô Thị Kim Q được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tên Đỗ Huỳnh Thanh N, sinh ngày 20/10/2010 và Đỗ Trường G, sinh ngày 23/3/2018.
Anh Đỗ Bá N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Về cấp dưỡng nuôi con: Tòa án đã giải thích Điều 107 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn nhưng chị Q không tranh chấp, không khởi kiện không đặt ra yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Chị Q không khởi kiện, không tranh chấp, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về số nợ phải thu, phải trả: Chị Q không tranh chấp, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Ngô Thị Kim Q có nghĩa vụ nộp 300.000 đồng, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số:
0008635 ngày 02/6/2020 do chị Q nộp cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang thu, chị Ngô Thị Kim Q đã nộp đủ án phí.
Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con giữa chị Q và anh N
Số hiệu: | 45/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về