TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Đ VÀ ANH T
Ngày 17 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXX-ST ngày 07 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Đ, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Khu phố A, Phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
* Bị đơn: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1969.
Địa chỉ: Khu phố A, Phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
Tất cả có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/5/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh T tự nguyện tìm hiểu, cưới nhau năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường B, thành phố BT. Trước khi cưới chị có sạp buôn bán tạp hóa tại chợ Phường B. Sau khi cưới cuộc sống vợ chồng bình thường, anh T phụ chị buôn bán tại chợ mà không tìm việc làm khác. Thu nhập từ việc buôn bán vẫn đủ trang trải cho cuộc sống của vợ chồng. Thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T không chịu tìm công việc khác để làm mà còn ham mê cờ bạc, cụ thể là tham gia đá gà, đã 03 lần gây nợ, mỗi lần từ 50 đến 60 triệu đồng. Những lần đó chị đều hốt hụi để trả nợ cho anh nhưng anh T vẫn không thay đổi tính tình. Chị và anh không cải vã hay gây gỗ vì chị cho rằng tất cả đều đã trưởng thành phải tự nhận thức được đúng sai. Hiện chị đã về nhà mẹ ruột để sinh sống, vợ chồng ly thân nhau cách nay khoản 03 tháng. Do xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh T nên chị yêu cầu Tòa giải quyết được ly hôn với anh T. Trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị thì chị vẫn sẽ ở nhà mẹ ruột và ly thân với anh T.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa bị đơn anh Vũ Văn T trình bày: anh hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của chị Đ về thời điểm kết hôn và đăng ký kết hôn. Tuy nhiên anh không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ, trong quá trình chung sống vợ chồng hoàn toàn không có mâu thuẫn. Anh thừa nhận từ khi cưới chị Đ đến nay anh không đi làm nhưng hàng ngày đều phụ chị buôn bán tại chợ, chị Đ cũng chưa bao giờ đề cập với anh về việc chị muốn anh có việc làm khác, không muốn anh phụ chị buôn bán nữa. Anh cam đoan sẽ tìm việc khác để làm như mong muốn của chị. Anh thừa nhận có thích tham gia đá gà, thỉnh thoảng có cá độ đá banh và vài lần gây ra nợ để chị Đ phải trả. Tuy nhiên, cuộc sống giữa vợ chồng vẫn rất êm Đ, chưa từng cải vã to tiếng với nhau. Anh cam đoan sẽ từ bỏ tham gia cờ bạc, cụ thể là từ Tết nguyên đáng đến nay anh chỉ lo làm phụ vợ, hoàn toàn không tham gia cờ bạc nữa. Anh xin chị Đ cho anh một cơ hội để sửa đổi bản thân. Nếu chị giận anh thì cứ sống tại nhà mẹ ruột và cho anh thời gian để chứng minh thiện chí khắc phục lỗi lầm của anh.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.
XÉT THẤY
[1] Chị Huỳnh Thị Đ và anh Vũ Văn T tự nguyện kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân Phường B, thành phố BT cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/8/2012 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Do anh T hiện cư trú trên địa bàn thành phố BT nên Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre thụ lý giải quyết vụ kiện “Xin ly hôn” nêu trên là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng qui định nhưng đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 được.
[3] Tại phiên tòa, chị Đ vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn với anh T nhưng anh T không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ, muốn vợ chồng hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa chị Đ và anh T chưa lâu, quan hệ hôn nhân giữa anh chị còn có khả năng hàn gắn được, chưa trầm trọng đến mức phải ly hôn. Anh T có cam kết sẽ sửa đổi tính tình để khắc phục những mâu thuẫn hiện tại. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ nhằm tạo thêm thời gian và cơ hội cho anh chị hàn gắn quan hệ vợ chồng. Nếu sau thời gian 01 năm mà tình trạng hôn nhân không cải thiện được thì căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 3 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 chị Đ được quyền khởi kiện lại.
[4] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: hai bên cùng khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Đ phải nộp theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: - Áp dụng các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Đ về việc xin ly hôn với anh Vũ Văn T.
2. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị Huỳnh Thị Đ phải nộp nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai số 0011889 ngày 18 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BT. Chị Huỳnh Thị Đ đã nộp đủ tiền án phí.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn giữa chị Đ và anh T
Số hiệu: | 45/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về