Bản án 45/2019/HS-ST ngày 30/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM

 BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 30/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đoàn Văn T, sinh ngày 14/5/2003, tại: Xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Hội An, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Phi C và bà Võ Thị T; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Không; tiền sự: Ngày 20/3/2019 bị Công an thị trấn T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Nhân thân: Ngày 15/11/2017 bị Công an thị trấn T ra Quyết định xử phạt hành chính về hành đánh nhau, ngày 16/01/2018 Công an thị trấn T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, ngày 28/9/2018 bị Công an huyện T ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo đang bị áp dụng biên pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 91 ngày 08/11/2019 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Phước. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đoàn Văn T: Ông Đoàn Phi C, sinh năm 1979 và bà Võ Thị T, sinh năm 1982. Cùng địa chỉ: Thôn Hội An, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam (Là cha, mẹ ruột của bị cáo). Ông C vắng mặt, bà T có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Thanh Liên – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Bị hại:

+ Bà Phan Thị B, sinh năm: 1973. Địa chỉ: Số nhà 191, đường 10/3, khối phố B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1997. Địa chỉ: Thôn Tứ Sơn, xã Bình Tr, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Võ Viêt T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khối phố Bình Phước, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Nhật H, sinh ngày 15/5/2002. Địa chỉ: Khối phố Bình Phước, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của anh Trần Nhật H: Ông Trần Ng, sinh năm 1975 và bà Dương Bích Th, sinh năm 1980. Cùng địa chỉ: Khối phố Bình Phước, thị trấn T, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam (Là cha, mẹ ruột của anh H). Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 08/9/2019, Đoàn Văn T cùng Trần Nhật H đến tiệm Internet Nhật Thành(số 124, đường 10/3, khối phố Tiên Bình, thị trấn Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước) chơi game. Đến khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, Trần Nhật H đưa cho Đoàn Văn T 20.000 đồng để đi mua kem về ăn, thì Đoàn Văn T đồng ý rồi đi bộ đến nhà bà Phan Thị B để mua kem. Khi đến nhà bà Phan Thị B, lúc này Đoàn Văn T gọi hỏi mua kem nhưng không có ai trả lời, Đoàn Văn T đi vào phòng mua bán kem thì thấy một cái điện thoại di động (hiệu OPPO A7 màu xanh có gắn ốp lưng bằng nhựa màu đỏ, mặt màn hình điện thoại có dán keo trong và kính cường lực, điện thoại gắn sim Viettel số 0971732873 và sim Vinaphone số 0855929509) trong cái thau bằng kim loại màu trắng đựng các bọc sữa chua để trên bàn nhựa sát tường phòng khách. Đoàn Văn T quan sát không thấy ai ở nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại này. Đoàn Văn T đi đến cầm lấy điện thoại cất giấu vào túi quần đang mặc rồi đi ra đường 10/3 về lại tiệm Internet Nhật Thành. Khi đến tiệm Internet Nhật Thành, Đoàn Văn T đi ra lô đất trống phía sau tiệm Internet Nhật Thành tháo ốp lưng, hai thẻ sim và kính cường lực dán màn hình của điện thoại vứt bỏ. Đoàn Văn T kiểm tra điện thoại thì thấy điện thoại có cài mật khẩu khóa màn hình không mở được, sợ đem bán điện thoại dễ bị phát hiện nên Đoàn Văn T nhặt cục đá đập vỡ nứt màn hình cảm ứng của điện thoại rồi cất giấu điện thoại vào trong túi quần. Sau đó đi vào tiệm Internet Nhật Thành tiếp tục chơi game cùng với Trần Nhật H. Đến khoảng 14 giờ 35 phút cùng ngày, Đoàn Văn T về nhà tại thôn Hội An, xã T, huyện Tiên Phước. Sau khi về nhà, Đoàn Văn T thay quần, mặc thêm áo khoác rồi ra đường xin xe đi nhờ đến tiệm điện thoại Tân Tịnh (Số 03, Trần Ngọc Sương, khối phố Bình Phước, thị trấn T, huyện Tiên Phước) do ông Võ Viêt T làm chủ để bán điện thoại vừa trộm cắp với giá 200.000 đồng. Sau đó Đoàn Văn T đi đến tiệm Internet Nhật Thành tiếp tục chơi game cùng với Trần Nhật H. Tại đây, Đoàn Văn T nghe thông tin Công an đang điều tra vụ trộm cắp điện thoại di động ở tiệm kem Bình, sợ bị phát hiện nên Đoàn Văn T đi ra lô đất trống phía sau tiệm Internet Nhật Thành, nơi Đoàn Văn T vứt bỏ ốp lưng, sim và kính cường lực của màn hình điện thoại trộm cắp được nêu trên rồi cởi bỏ cái áo sơ mi dài tay màu trắng xám (áo này Đoàn Văn T mặc lúc trộm cắp điện thoại) vào trong sọt rác rồi đi vào lại trong tiệm Internet Nhật Thành, Đoàn Văn T bỏ cái mũ bằng vải màu đen (mũ này Đoàn Văn T đội lúc trộm cắp điện thoại) trên giá để đồ của bàn máy số 11 rồi rủ Trần Nhật H đi đến tiệm Internet Thành Nhân (số 119, đường Tôn Đức Thắng, khối phố Tiên Bình, thị trấn T, huyện Tiên Phước) tiếp tục chơi game. Tại đây, Đoàn Văn T gặp người thanh niên tên Th (Đoàn Văn T khai Th trú ở xã Tiên An, không xác định được địa chỉ cụ thể). Do sợ bị Công an phát hiện nên Đoàn Văn T đổi đôi dép màu đen mà Đoàn Văn T đang mang (đôi dép này Đoàn Văn T mang lúc trộm cắp điện thoại) cho Th rồi lấy đôi dép màu trắng của Th mang rồi tiếp tục chơi game. Đến ngày 09/9/2019, Công an thị trấn T phát hiện, Đoàn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận tổng giá trị của điện thoại di động và hai sim nêu trên là 4.950.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định, ngoài lần trộm cắp tài sản nêu trên, Đoàn Văn T còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác trên địa bàn thị trấn Tiên Kỳ, huyện T cụ thể như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 19 tháng 9 năm 2019, sau khi chơi game tại tiệm Internet Nhật Thành, Đoàn Văn T nảy sinh ý định đi tìm kiếm tài sản của người khác để trộm cắp. Lúc này, Đoàn Văn T đi bộ theo đường Trần Ngọc Sương thuộc khối phố Bình Phước, thị trấn T, huyện T thì thấy tiệm cắt tóc Dương Lâm mở cửa nên Đoàn Văn T đi vào trong tiệm tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi vào trong tiệm, lúc này Nguyễn Thanh T đang tắm trong phòng vệ sinh, Đoàn Văn T quan sát thấy trên cái ghế nằm gội đầu có một cái quần jean, Đoàn Văn T đi đến lục lọi trong túi quần sau lấy cái bóp rồi đi ra khu vực bờ kè gần chợ Tiên Phước. Tại đây Đoàn Văn T mở bóp ra thấy có 3.000.000 đồng (gồm 3 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 6 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 3 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng), Đoàn Văn T lấy hết số tiền này cất giấu trong túi quần đang mặc rồi vứt bỏ cái bóp tại đây, sau đó đi đến tiệm Internet 05 tại xã T tiếp tục chơi game. Đến ngày 20/10/2019, Đoàn Văn T đi đến thành phố Tam Kỳ trả nợ cho một người thanh niên tên Minh S số tiền 1.900.000 đồng, số tiền còn lại Đoàn Văn T tiêu xài cá nhân hết.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Phước đã tạm giữ:

1. Một điện thoại di động hiệu OPPO A7, màu xanh. Mặt sau điện thoại có chữ “OPPO” màu trắng, màn hình cảm ứng bị vỡ, nứt một vết tròn đường kính 03 cm, vết nứt lan tỏa rộng ra khắp màn hình.

2. Một cái mũ le bằng vải màu đen, trên le mũ có chữ “puma”.

3. Hai thẻ sim, loại sim cắt (một sim có chữ “4G Viettel”, thuê bao số 0971732873 tình trạng đã bị khóa, không hoạt động; một sim có chữ “4G Vinaphone”, thuê bao số 0855929509, tài khoản 0 đồng).

4. Một ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa dẻo trong suốt, viền màu đỏ.

5. Một cục đá sông màu mỡ gà, không rõ hình dạng, chỗ rộng nhất 09 cm, chỗ hẹp nhất 02 cm.

6. Một cái áo sơ mi nam dài tay màu trắng xám, trong cổ áo gắn mạc có chữ “RM 79”.

* Về dân sự:

Bà Phan Thị B và ông Võ Viêt T đã nhận tiền bồi thường nên không có yêu cầu gì khác.

Anh Nguyễn Thanh T yêu cầu bị cáo tiếp tục đền bù số tiền 3.000.000 đồng là số tiền bị Đoàn Văn T trộm cắp, hiện nay bị cáo chưa bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số: 40/CT-VKSTP ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước đã truy tố bị cáo Đoàn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; các Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, Điều 90, Điều 91, 96 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với bị cáo thời hạn từ 15 đến 18 tháng.

Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, bị hại bà Phan Thị B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Võ Viêt T và gia đình bị cáo đã thỏa thuận xong vấn đề bồi thường dân sự nên bị hại không có không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo. Bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại cho người bị hại Nguyễn Thanh T số tièn 3.000.000 (Ba triệu) đồng.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa: Người bào chữa thông nhất với Cáo trạng truy tố của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo Đoàn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc phạm tội của bị cáo Đoàn Văn T, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, ở lứa tuổi này nhận thức pháp luật của bị cáo còn hạn chế, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình khắc phục thiệt hại, tại phiên tòa bị cáo đã thể hiện được sự ăn năn, hối cải với hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn. Bị cáo phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên nên đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc không áp dụng hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điểm b, s, h Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, 92, 95 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhằm thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo trong pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Xét thấy, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Văn T khai nhận như sau: Để có tiền tiêu xài, ngày 08/9/2019, bị cáo đã lén lút vào nhà bà Phan Thị B để trộm cắp một chiếc điện thoại di động OPPO A7 (có gắn hai sim) tổng giá trị là 4.950.000 đồng của bà Bình, ngày 19/9/2019 bị cáo tiếp tục vào tiệm cắt tóc Dương Lâm trộm cắp một cái bóp trong đó có số tiền 3.000.000 đồng và chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Thanh T.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Văn T tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác hai lần có tổng giá trị là 7.950.000 đồng như đã nêu ở trên của bị cáo Tiến đủ yếu tố cấu thành tội:“Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước đã truy tố đối với bị cáo Đoàn Văn T là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quyền sử hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ, bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác đều bị pháp luật trừng trị. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời gia đình bị cáo đã khắc phục một phần thiệt hại về tài sản cho bà Phan Thị B và bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Viêt T. Bà nội của bị cáo thuộc đối tượng là người có công với cách mạng có xác nhận của chính quyền địa phương nên bị cáo còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên khả năng nhận thức pháp luật, cũng như khả năng nhận thức hành vi và hậu quả phạm tội còn hạn chế. Tuy nhiên bị cáo phạm tội hai lần do vậy bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo có nhân thân không tốt, ngày 15/11/2017 bị Công an thị trấn Tiên Kỳ ra Quyết định xử phạt hành chính về hành đánh nhau, ngày 16/01/2018 Công an thị trấn Tiên Kỳ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, ngày 28/9/2018 bị Công an huyện Tiên Phước ra quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo còn có một tiền sự, ngày 20/3/2019 bị Công an thị trấn Tiên Kỳ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo ĐoànVăn T chưa đủ 18 tuổi, nhận thức pháp luật còn hạn chế nhưng bị cáo Đoàn Văn T có nhân thân không tốt, đã 4 lần bị xử phạt hành chính, trong đó tháng 3/2019 bị có đã sử dụng ma túy và đã bị xử phạt nhưng bản thân bị cáo không có hướng sửa chữa, phấn đấu để khắc phục mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm hơn, lần phạm tội này bị cáo còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là phạm tội hai lần trở lên. Vì vậy, để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật cần phải áp dụng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe bị cáo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương, gia đình giám sát cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội. Nếu áp dụng biện pháp tư pháp sẽ không tương xứng với tính chất, mức độ trong trong hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên và người bào chữa về áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Điều 95, 96 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo Đoàn Văn T là người dưới 18 tuổi nên không áp dụng khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Đối với đề nghị của người bào chữa về áp dụng tình tiết giảm nhẹ: “ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn” quy định định tại Điểm h Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận bởi vì: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hai lần, giá trị tài sản tính trên tổng cộng số lần bị cáo trộm cắp trong vụ án này là: 7.950.000 đồng, đây là số tiền có giá trị lớn đối với mặt bằng chung trên địa bàn huyện Tiên Phước tại thời điểm bị cáo trộm cắp tài sản.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo và bị hại Phan Thị B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Viêt T đã thỏa thuận xong việc bồi thường dân sự và bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với số tiền: 3.000.000đồng (Ba triệu đồng y) của anh Nguyễn Thanh T bị cáo chưa bồi thường nên buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho anh Nguyễn Thanh T. Do bị cáo không có tài sản riêng để bồi thường nên ông Đoàn Phi C và bà Võ Thị T phải có trách nhiệm bồi thường thay cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với một chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A7, màu xanh mà bị cáo Đoàn Văn T đã trộm cắp được, hiện nay gia đình bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong việc bồi thường dân sự, bị hại bà Phan Thị B không có yêu cầu nhận lại mà giao chiếc điện thoại này cho gia đình bị cáo, tại phiên tòa bà T có yêu cầu nhận lại tài sản nên trả lại cho ông Đoàn Phi C và bà Võ Thị T.

- Một cái mũ le bằng vải màu đen, trên le mũ có chữ “puma”, một cái áo sơ mi nam dài tay màu trắng xám, trong cổ áo gắn mạc có chữ “RM 79” là tài sản của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại và tài sản nên trao trả lại cho bị cáo.

- Đối với hai thẻ sim, loại sim cắt (một sim có chữ “4G Viettel”, thuê bao số 0971732873 tình trạng đã bị khóa, không hoạt động; một sim có chữ “4G Vinaphone”, thuê bao số 0855929509, tài khoản 0 đồng) không còn; một ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa dẻo trong suốt, viền màu đỏ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. - Đối với một cục đá sông màu mỡ gà, không rõ hình dạng, chỗ rộng nhất 09 cm, chỗ hẹp nhất 02 cm bị cáo dùng để đập vỡ màn hình điện thoại không còn giá trị sử dụng cần tịch huy tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Đoàn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173, Điều 36, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Điều 90, 91, 98, 100 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Đoàn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 586, 589 Bộ luật Dân sự buộc ông Nguyễn Phi C và bà Võ Thị T bồi thường cho anh Nguyễn Thanh T số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng.

Kể từ ngày anh Nguyễn Thanh T có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong toàn bộ số tiền nêu trên, hàng tháng ông C, bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho ông Đoàn Phi C, bà Võ Thị T, thôn Hội An, xã T, huyện T một chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A7, màu xanh.

- Trả lại cho bị cáo Đoàn Văn T một cái mũ le bằng vải màu đen, trên le mũ có chữ “puma”, một cái áo sơ mi nam dài tay màu trắng xám, trong cổ áo gắn mạc có chữ “RM 79”.

- Tịch thu tiêu hủy hai thẻ sim, loại sim cắt (một sim có chữ “4G Viettel”, thuê bao số 0971732873 tình trạng đã bị khóa, không hoạt động; một sim có chữ “4G Vinaphone”, thuê bao số 0855929509, tài khoản 0 đồng); một ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa dẻo trong suốt, viền màu đỏ. - Tịch huy tiêu hủy một cục đá sông màu mỡ gà, không rõ hình dạng, chỗ rộng nhất 09 cm, chỗ hẹp nhất 02 cm.

Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2019).

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV: Buộc bị cáo Đoàn Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hai khoản bị cáo phải nộp là: 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng y).

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (30/11/2019). Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 30/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về