Bản án 45/2019/HS-PT ngày 13/06/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 45/2019/HS-PT NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 46/2019/TLPT-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Tường Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HSST ngày 04/04/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Tường Th; tên gọi khác: Tư; sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Định; nơi ĐKHKTT: thôn An Lạc Đông 1, thị trấn P, huyện Ph, tỉnh Bình Định; chỗ ở: hẻm 31, Đào Duy Từ, phường 4, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: lớp 10/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh Hùng, sinh năm 1954 và bà Trần Thị L, sinh năm 1958; vợ Nguyễn Hà Mi M, sinh năm 1988 và có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018; tiền sự: không;

Tiền án: Bản án số 152/2014/HSST ngày 17/12/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt với 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tại bản án số 254/2014/HSPT ngày 14/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 36 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/01/2017;

Nhân thân: Ngày 16/02/2017 bị Công an huyện P, tỉnh Bình Định phạt 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”, đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 19/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. Có mặt.

Trong vụ án còn có bị cáo Trịnh Tùng L, bị hại là chị Lê Thị Bích H không kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 10/10/2018, Nguyễn Tường Th điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen-xám, biển kiểm soát 49M4-4984 đến Khu vực Quảng trường thuộc phường 10, thành phố Đ, Lâm Đồng thì thấy chị Lê Thị Bích H điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH, màu đen đi ngang qua, trên xe đang treo một giỏ xách nên Th nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc giỏ xách này. Thực hiện ý định, Th điều khiển xe đi theo chị Hà đến Chung cư Yersin, phường 9, thành phố Đ thì thấy chị H vào chung cư đón bạn đi ăn tối tại quán cháo vịt đường Yersin nên Th đi về nhà trọ của mình ở đường Đào Duy Từ, phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng, rủ bạn là Trịnh Tùng L đi chơi. Khi quay lại quán cháo vịt, thấy chị H và bạn vẫn ở đó nên Th rủ L giật túi xách của chị H thì được L đồng ý. Khoảng 15 phút sau, thấy chị H lấy xe đi về thì Th điều khiển xe mô tô của mình chở L đi theo sau. Sau khi chở bạn về lại Chung cư Yersin, chị H đi xe một mình ra đường Nguyễn Đình Chiểu, qua đường Hùng Vương và rẽ vào đường Trần Thái Tông, lúc này thấy đường vắng nên Th điều khiển xe vượt lên phía trước rồi quay lại, ép sát và chặn đầu xe của chị H, thấy vậy, chị H nói: “Chạy xe kiểu gì vậy?” thì Th và L chồm người lên, Th dùng tay trái giật giỏ xách của chị H đang treo trên xe, nhưng do giỏ xách bị vướng vào xe nên làm xe của chị H ngã xuống đường. Th xuống xe tìm giỏ xách, còn L cầm lái và chỉ cho Th giỏ xách bị xe đè phía dưới, Th kéo xe máy của chị H ra, lấy giỏ xách rồi chạy lại xe máy L đang đợi và cả hai bỏ chạy. Khi về đến phòng trọ, Th và L lục giỏ xách, lấy được 780.000 đồng; 01 ví cầm tay hiệu LV; 01 giấy phép lái xe hạng A1; 01 chứng minh nhân dân; 01 chứng minh quân đội đều mang tên Lê Thị Thu H; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Ph; 01 sổ hộ khẩu bản gốc và 03 Thẻ ATM của các Ngân hàng ACB, MB và VCB. Số tiền mặt, cả hai cùng tiêu xài hết, còn giỏ xách, ví cầm tay và số giấy tờ còn lại thì Th và L đem đốt và vứt bỏ ở đâu không nhớ nên quá trình điều tra không thu hồi được. Sau khi sự việc xảy ra, chị H đã đến Cơ quan Công an trình báo, đến ngày 19/10/2018, Nguyễn Tường Th đến Công an phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng đầu thú; ngày 14/11/2018, Trịnh Tùng L đến Công an thành phố Đ đầu thú và tại Cơ quan điều tra, cả hai bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nêu trên.

Ngày 09/01/2019 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ, Lâm Đồng kết luận: Do vật chứng không thu giữ được nên không có cơ sở để định giá đối với chiếc giỏ xách và chiếc ví cầm tay hiệu LV, chị Lê Thị Bích H không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.

Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 11/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố Nguyễn Tường Th và Trịnh Tùng L về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bản án số 47/2019/HSST ngày 04/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tường Th và Trịnh Tùng L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tường Th 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/10/2018.

Xử phạt bị cáo Trịnh Tùng L 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/11/2018.

Bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 15/4/2019 bị cáo Nguyễn Tường Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào tối ngày 10/10/2018, Nguyễn Tường Th thấy chị Lê Thị Bích H điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH, trên xe đang treo một giỏ xách nên Thành nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc giỏ xách này. Bị cáo Th đã rủ rê Trịnh Tùng L cùng đi cướp giật thì L đồng ý. Thành điều khiển xe mô tô của mình chở L đi theo sau chị H. Sau khi chở bạn về lại Chung cư Yersin, chị Hà đi xe một mình ra đường Nguyễn Đình Chiểu, qua đường Hùng Vương và rẽ vào đường Trần Thái Tông, lúc này thấy đường vắng nên Th điều khiển xe vượt lên phía trước rồi quay lại, ép sát và chặn đầu xe của chị H cướp giật được túi xách của chị H treo trên xe rồi bỏ chạy về phòng trọ. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Th xin giảm nhẹ hình phạt: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.

Xét hành vi của các bị cáo vì muốn chiếm đoạt 01 giỏ xách, bằng cách sử dụng xe mô tô giật tài sản của chị Lê Thị Bích H là người đang điều khiển xe, đã gây nguy hiểm về tính mạng, sức khỏe cho người bị hại, đây là thủ đoạn nguy hiểm.

Bản thân bị cáo Th đã có 02 bản án, trong đó đã bị tuyên phạt 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, bị cáo chấp hành xong ngày 27/01/2017 chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Cấp sơ thẩm xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xử phạt bị cáo Th mức án như trên là thỏa đáng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tường Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tường Th phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tường Th 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/10/2018.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Tường Th phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-PT ngày 13/06/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:45/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về