Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN - THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 11 năm 2018 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 166/2018/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 về “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2018/QĐXX - ST ngày 22/10/2018 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1981 (có mặt)

ĐKNKTT: TDP K, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

Chỗ ở hiện nay: Khu tập thể nhà máy cổ phần cơ khí P, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Bị đơn: Anh Đặng Anh H, sinh năm 1980 (vắng mặt)

ĐKNKTT: TDP K, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: chị và anh Đặng Anh H kết hôn tháng 09/2005, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Trước khi kết hôn có được tìm hiểu, kết hôn trên cơ sở tự nguyện.

Sau khi kết hôn, chị về làm dâu, chung sống cùng gia đình anh H tại xóm K, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Chung sống cùng bố mẹ chồng khoảng 03 năm thì bố mẹ chuyển về quê ở Bắc Ninh.

Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H chơi bời, lô đề cờ bạc, có quan hệ với người phụ nữ khác. Chị cũng đã khuyên nhủ anh nhiều lần nhưng anh không từ bỏ được, bị công ty nơi làm việc sa thải vì không chịu làm ăn, chị và gia đình đã phải trả nợ cho anh rất nhiều lần, tài sản trong gia đình anh cũng đã bán hết để có tiền trả nợ. Do không chịu đựng được cuộc sống như vậy nên chị và hai con đã bỏ vào khu tập thể nhà máy cơ khí P ở từ tháng 7/2017 cho đến nay. Trong suốt thời gian đó, anh H cũng không quan tâm đến chị và các con. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đặng Uyển N, sinh ngày 09/11/2008 và Đặng Hoàng L, sinh ngày 05/12/2012. Kể từ khi vợ chồng ly thân hai con chung đều do chị nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị đề nghị được tiếp tục nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.

Bị đơn anh Đặng Anh H vắng mặt tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ, niêm yết các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên anh H đều vắng mặt không có lý do. Trước khi mở phiên tòa ngày hôm nay, anh H có gửi đơn xin xét xử vắng mặt đến Tòa án, theo nội dung đơn xin vắng mặt ngày 13/11/2018, anh H trình bày: “ Tôi đã nhận được thông báo của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên về việc thụ lý yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị H đối với tôi và cũng đã nhận được các giấy báo của Tòa án đến để giải quyết cũng như xét xử vụ án trên vào ngày 21/11/2018. Tuy nhiên do điều kiện công việc của tôi thường xuyên phải đi nhiều và tôi cũng không sắp xếp được công việc do vậy tôi đã không có mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như có mặt tại phiên tòa xét xử trên. Do vậy tôi đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vào ngày 21/11/2018.

Quan điểm của tôi xin được trình bày như sau: Về quan hệ hôn nhân tôi nhất trí ly hôn với chị H theo như nguyện vọng của chị H, về con chung tôi đề nghị được nuôi hai con chung vì thứ nhất là về điều kiện kinh tế hiện nay tôi đảm bảo được vật chất để nuôi ăn học, chỗ ở cho 2 con. Thứ hai là về mặt tinh thần và kiến thức nuôi dạy tôi cũng đảm bảo được cho các cháu. Thứ ba là hiện nay mẹ của các cháu cũng không được khỏe lắm, hơn nữa công việc của công ty cũng nhiều nên việc chăm sóc cho các cháu sẽ là rất vất vả. Vì vậy đề nghị Tòa giải quyết cho tôi được chăm sóc và nuôi dưỡng hai con. Tôi không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Không có. Ngoài ra tôi không còn lời khai nào khác”.

Anh H không có ý kiến gì về việc Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Tại Biên bản xác minh ngày 01 /10/2018 và ngày 09/10/2018 giữa Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên với Công an phường B và bà Đào Thị B - Tổ trưởng TDP K, phường B cung cấp như sau: Anh Đặng Anh H sinh năm 1980 và chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1981 có đăng ký nhân khẩu thường trú tại TDP K, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Hiện anh H vẫn có đăng ký nhân khẩu thường trú tại địa chỉ trên, chưa cắt khẩu chuyển đi nơi khác.

Trước đây chị H, anh H chung sống cùng bố mẹ đẻ anh H là ông Đặng Đình H và bà Nguyễn Thị T tuy nhiên bố mẹ đẻ anh Hùng đã chuyển về quê ở Bắc Ninh sinh sống khoảng 3 năm nay.

Về mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị, chính quyền địa phương không nắm được vì anh chị cũng không báo cáo, chính quyền TDP cũng không tiến hành hòa giải cho anh chị lần nào. Tuy nhiên anh H, chị H đã ly thân khoảng 2 năm nay, từ khi không còn chung sống chị H cùng hai con đã vào khu tập thể Công ty cổ phần cơ khí P ở, không thấy chị H quay về địa phương lần nào.

Chính quyền tổ dân phố cũng đã phối hợp với Tòa án đến gia đình anh H để giao các văn bản tố tụng cho anh H nhưng thường không gặp vì anh H không có nhà. Tòa án đã lập thủ tục niêm yết tại địa phương theo đúng quy định. Kể từ khi anh H được giao thông báo về việc Tòa án thụ lý đơn ly hôn của chị H, anh H không thường xuyên về nhà. Anh H làm công việc gì, chính quyền địa phương cũng không nắm được. Quan điểm của chính quyền địa phương, Nếu anh H cố ý gây khó khăn cho chị H trong việc giải quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh H để đảm bảo quyền lợi cho chị H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn chưa chấp hành theo giấy báo của Tòa án.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thu Hường: Áp dụng Điều 51, 56, điều 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Đặng Anh H;

Về con chung: giao cả hai con chung cho chị Hường trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Hùng cho đến khi có yêu cầu.

Về tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có;

Về án phí: áp dụng Điều 27 Nghị Quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBNVQH14, chị Hường phải chịu án phí theo quy định pháp luật. 

Viện kiểm sát không có kiến nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, sau khi nghe quan điểm của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Đặng Anh H đều có đăng ký nhân khẩu thường trú tại TDP K, phường B, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Chị H làm đơn ly hôn anh H, căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự xác định đây là Tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên.

[2]. Về thủ tục thụ lý đơn khởi kiện: Ngày 20 tháng 3 năm 2018 chị H có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án, ngày 23/3/2018, chị H có đơn đề nghị tạm dừng việc thụ lý, ngày 18/6/2018, chị H có đơn đề nghị tiếp tục thụ lý giải quyết. Cùng ngày Tòa án đã tiến hành thụ lý yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H đối với anh H đảm bảo theo quy định tại khoản 3 Điều 191của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về sự vắng mặt của anh H trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H đã được Tòa án tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp về việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập phiên tòa và các văn bản tố tụng hợp lệ khác theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng anh H không tham gia tố tụng. Trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án ngày hôm nay, anh H có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy HĐXX căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh H theo quy định pháp luật.

[4]. Về nội dung: chị Nguyễn Thị Thu H và anh Đặng Anh H tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 01/9/2005 tại UBND xã B, Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Quá trình chung sống, vợ chồng đã có thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chị H cho rằng do anh H chơi lô đề, cờ bạc, không chịu tu chí làm ăn, có quan hệ với người phụ nữ khác dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Do cuộc sống căng thẳng, không có hạnh phúc nên chị H cùng hai con đã bỏ đi từ tháng 7/2017 đến nay. Nay chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án anh H vắng mặt không có ly do. Việc anh H cố tình lẩn tránh, không hợp tác chứng tỏ thái độ không tôn trọng pháp luật cũng như hôn nhân vợ chồng, gây khó khăn trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án ly hôn, làm cho vụ án kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H.

Tại các biên bản xác minh của Tòa án với chính quyền địa phương thấy rằng, thực tế anh chị đã ly thân thời gian dài, không còn sự quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau. Anh H có đơn xin xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án, thể hiện quan điểm nhất trí ly hôn với chị H.

Từ những nhận định trên, có thể thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hôn nhân trên thực tế của anh chị không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần giải quyết cho H được ly hôn anh H là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[5]. Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Đặng Uyển N, sinh ngày 09/11/2008 và Đặng Hoàng L, sinh ngày 05/12/2012. Kể từ khi vợ chồng ly thân, hai cháu đều do chị H chăm sóc. Khi ly hôn chị H đề nghị được tiếp tục nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh H có quan điểm muốn nuôi cả hai con, cho rằng hiện nay anh đảm bảo được điều kiện vật chất cũng như tinh thần để nuôi dạy con, cho rằng chị H hiện nay sức khỏe không được tốt, công việc ở công ty nhiều nên việc chăm con vất vả.

Xét nguyện vọng nuôi con của chị H và anh H, HĐXX thấy rằng từ khi chị H, anh H ly thân hai con chung đều ở cùng chị H và được chị H chăm sóc chu đáo. Hiện chị H đang làm công việc văn phòng tại Công ty Cổ phần cơ khí P, mức lương khoảng 8 triệu đồng/ tháng. Anh H có nguyện vọng được nuôi con nhưng không chứng minh được có thu nhập để đảm bảo việc nuôi dạy, chăm sóc các con, mặt khác anh H không có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay. Xét thấy cần thiết giao cả hai con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81,82,83 Luật hôn nhân gia đình, phù hợp với nguyện vọng của con chung. Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh H.

[6]. Về tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.

[7]. Án phí: Chị H chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, 271, 273, Bộ luật tố tụng Dân sự 2015; Điều 51,56 , 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Nguyễn Thị Thu H với anh Đặng Anh H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Đặng Anh H.

2. Về con chung: Giao hai con chung Đặng Uyển N, sinh ngày 09/11/2008 và Đặng Hoàng L, sinh ngày 05/12/2012 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh H.

Anh H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước, được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng phí đã nộp Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên, tại biên lai số 0008624 ngày 19/6/2018.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị H, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về