Bản án 45/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH  HÀ TĨNH

BẢN ÁN 45/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 44/2017/HSST ngày 30 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị O, Sinh ngày: 10/11/1976; Trú tại: xóm X, xã H, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh; Trình độ văn hóa:  lớp 2/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Thanh C và bà Lê Thị H; Chồng: Phan V và có 04 con, đứa lớn nhất sinh năm 1997, đứa nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh ngày: 01/11/1961; trú tại: số nhà 124, đường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: lao động tự do, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng 16/6/2017, Nguyễn Thị O đến hiệu vàng P để giao dịch đổi ngoại tệ. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, sau khi hoàn thành giao dịch đổi ngoại tệ, Nguyễn Thị O phát hiện trên mặt bàn giao dịch tại hiệu vàng P có 01 chiếc túi vải màu đỏ của chị Nguyễn Thị H, O mở ra thấy bên trong có tiền nên nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên. Lợi dụng lúc chị H và người xung quanh không để ý O lấy chiếc túi gọi taxi đi về nhà kiểm đếm số tiền trong túi được 6.070.000 đồng, sau đó cất dấu số tiền trên vào tủ của gia đình. Ngày 29/6/2017, Công an phường Nam Hà, thành phố Hà Tĩnh triệu tập Nguyễn Thị O lên làm việc, O đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 46/CTr-KSĐT ngày 29/8/2017 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Tĩnh đã truy tố Nguyễn Thị O về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 BLHS, xử phạt Nguyễn Thị O từ 06 - 09 tháng tù cho hưởng án treo.

Bị cáo, người bị hại không có ý kiến tranh luận.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 16/6/2017, sau khi hoàn thành giao dịch đổi ngoại tệ tại hiệu vàng P, Nguyễn Thị O phát hiện trên mặt bàn của hiệu vàng 01 chiếc túi vải màu đỏ, mở ra thấy bên trong có tiền nên nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên. Lợi dụng lúc người xung quanh không để ý O lấy chiếc túi rồi ra gọi taxi về nhà kiểm đếm số tiền trong túi được 6.070.000 đồng rồi cất dấu số tiền trên vào tủ của gia đình.

Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ khẳng định bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đã bí mật, lén lút chiếm đoạt 6.070.000 đồng của chị Nguyễn Thị H. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, có đầy đủ chứng cứ kết tội Nguyễn Thị O phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại   khoản 1 Điều 138 BLHS.

Xét bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Tại phiên tòa người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và tính chất hậu quả phạm tội của bị cáo cần xử phạt mức án nghiêm minh. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhân thân tốt, đã tự nguyện nộp tài sản trộm cắp, có nơi cư trú ổn định rõ ràng, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, nghề nghiệp không ổn định đang phải nuôi 04 con nhỏ, chồng làm ăn xa, chính quyền địa phương xác nhận bị cáo sống tại địa phương là công dân tốt, sống hiền lành chất phát, không vi phạm pháp luật và đề nghị tạo điều kiện cho bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình. Do đó, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

Xét luận tội và đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, mức án là thỏa đáng.

Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường, miễn xét.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Thị O phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Oanh 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao Nguyễn Thị O cho UBND xã H, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Về án phí: Áp dụng Điều 98, khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc Nguyễn Thị O phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về