TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 45/2017/HSST NGÀY 12/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2017/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/HSST-QĐ ngày 28/6/2017, đối với bị cáo:
+ Nguyễn Văn N - sinh năm 1972; nơi ĐKHKTT: Xóm 4, xã GY, huyện GT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Lương B (Nguyễn Văn B) và bà Trần Thị B; có vợ là Lưu Thị C và có 02 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2000; tiền án: Ngày 18/7/2012, bị Tòa án nhân dân huyện GT, tỉnh Nam Định xử phạt 06 tháng tù vềtội: “Trộm cắp tài sản”; ngày 31/12/2013, bị Tòa án nhân dân huyện GT, tỉnh Nam Định xử phạt 39 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, thi hành xong hình phạt ngày 30/8/2016; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2017 đến ngày 08/3/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 45 phB ngày 02/3/2017, trong lúc tuần tra, kiểm soát tại thôn Ứng Liêm, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; tổ công tác của Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Ban Công an xã Thanh Hà phát hiện đối tượng Nguyễn Văn N có nhiều biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra Nguyễn Văn N thì phát hiện trong tay trái của N đang cầm 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, nghi là Heroine. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn N khai nhận: N là đối tượng nghiện ma túy. Do có nhu cầu mua ma túy để sử dụng nên khoảng 12 giờ ngày 02/3/2017, trên đường đi xe máy từ Hưng Yên về nhà qua khu vực Cầu Văn Lâm, xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, N vào quán nước ven đường nghỉ uống nước và hỏi một người lái xe ôm đang đứng đợi khách: „„Có chỗ nào mua ma túy không?’’, người này trả lời: „„Có‟‟. Thấy vậy, N bảo người này lên xe máy của N để N chở đi mua ma túy. Theo sự chỉ dẫn, N điều khiển xe đến khu dân cư thuộc thôn Ứng Liêm, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tại đây, người lái xe ôm đi bộ vào một nhà ở gần đó, còn N đứng đợi ở ngoài. Khoảng 05 phB sau, người lái xe ôm đi cùng với một người nam giới khác B xe mô tô rchỗ N. N hiểu đây là người bán ma túy nên đưa cho người này 200.000 đồng. Người nam giới cầm tiền của N và bảo: „„Anh chờ em một tý’’ và khoảng 20 phB sau quay lại bảo N: „„Anh đi ra đây em bảo’’. N điều khiển xe mô tô một mình đi theo được khoảng 100 mét thì người nam giới dừng xe và đưa cho N 01 gói giấy bạc màu vàng. N hiểu là ma túy bán cho mình nên cầm rồi điều khiển xe máy quay về chỗ người lái xe ôm đứng đợi. Trên đường đi, N bị lực lượng Công an huyện Thanh Liêm kiểm tra bắt quả tang.
* Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:
- Thu trong tay trái của N 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (nghi là Heroine) được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01;
- Thu tại túi quần trước bên phải N đang mặc 01 lọ thủy tinh loại 2ml bên trong có chứa chất lỏng không màu, trên lọ thủy tỉnh có chữ Novocaiw; 01 bơm kim tiêm loại 3mlcc chưa qua sử dụng;
- Thu trong túi quần trước bên trái N đang mặc 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh đen được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02;
- Thu tại túi áo khoác phía trong bên trái N đang mặc 01 ví màu đỏ trắng bên trong có số tiền 700.000 đồng, 01 căn cước công dân số 036072002671 và01 đăng ký xe mô tô số 0092029;
- Thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen xám, BKS 18P5-0943.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn N, Cơ quan điều tra không thugiữ gì.
Tại bản kết luận giám định số 45/PC54-MT ngày 04/3/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục bên trong 01 (một) gói giấy bạc trong mẫu kí hiệu QT01 gửi giám định có trọng lượng là 0,287g (Không phảy hai trăm tám mươi bảy gam), có Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của C phủ.
Về nguồn gốc Heroine thu giữ: Theo lời khai của bị cáo xác định số Heroine có được do N mua theo chỉ dẫn của người lái xe ôm không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực Cầu Văn Lâm thuộc xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; người đã bán ma túy cho N ở khu vực xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam cũng không rõ tên tuổi, địa chỉ. Ngoài lời khai của N, cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm không có căn cứ xác minh làm rõ nguồn gốc số ma túy thu giữ cũng như người dẫn đường và người đã bán Heroine cho N ngày 02/3/2017.
Bản cáo trạng số 46/KSĐT ngày 31/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự - Xử phạt Nguyễn Văn N từ 07 đến 08 năm tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy lượng Heroine hoàn lại sau giám định, 01 lọ thủy tinh, 01 bơm kim tiêm; trả lại Nguyễn Văn N 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh đen, 01 ví màu đỏ trắng, số tiền 700.000 đồng, 01 căn cước công dân; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen xám BKS 18P5-0943 cùng 01 đăng ký xe mô tô số 0092029. Bị cáo N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, một lần nữa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 12 giờ 45 phB ngày 02/3/2017, tại khu vực thôn Ứng Liêm, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Công an huyện Thanh Liêm đã bắt quả tang Nguyễn Văn N đang tàng trữ 0,287g chất bột màu trắng dạng cục, có Heroine, với mục đích là để sử dụng cho bản thân.
[3] Hành vi tàng trữ trái phép Heroine của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến C sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an N, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trước đó, tại bản án hình sự số 97/2013/HSST ngày 31/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện GT, tỉnh Nam Định đã xác định N “Tái phạm” và xử phạt N 39 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích. Vì vậy, lần phạm tội này bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu (đã hai lần bị kết án, chưa được xóa án tích).
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo nêu trên được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999. Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về thi hành Bộ luật hình sự 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định này đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập; vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Đối với người chỉ dẫn N mua ma túy và người đã bán ma túy cho N: Bản thân N xác định không quen biết và không biết tên tuổi địa chỉ của những người này, ngoài ra không còn tài liệu chứng cứ nào khác; vì vậy Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với lượng Heroine hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 lọ thủy tinh loại 2ml bên trong có chứa chất lỏng không màu, trên lọ thủy tỉnh có chữ Novocaiw, 01 bơm kim tiêm loại 3ml/cc không có giá trị; nay sẽ căn cứ Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh đen, 01 ví màu đỏ trắng, số tiền 700.000 đồng, 01 căn cước công dân số 036072002671: Đây là những đồ vật, tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen xám BKS 18P5-0943 và 01 đăng ký xe mô tô số 0092029 bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy, hiện không xác định được chủ sở hữu hay người quản lý hợp pháp; nay sẽ căn cứ Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (Bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 02/3/2017.
2. Xử lý vật chứng:
- Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Heroine hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 45/PC54-MT, 01 lọ thủy tinh loại 2ml bên trong có chứa chất lỏng không màu, trên lọ thủy tỉnh có chữ Novocaiw, 01 bơm kim tiêm loại 3ml/cc; trả lại cho Nguyễn Văn N 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh đen, 01 ví màu đỏ trắng, số tiền 700.000 đồng, 01 căn cước công dân số 036072002671; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen xám BKS 18P5-0943 và 01 đăng ký xe mô tô số 0092029(Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/6/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Liêm. Số tiền theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 24 lập ngày 08/6/2017 tại Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Liêm).
3. Án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội - Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 45/2017/HSST ngày 12/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 45/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về