TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 45/2017/HSPT NGÀY 24/07/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 24/7/2017, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62/2017/HSST ngày 30/6/2017 do có kháng cáo của các bị cáo đối với đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân dân thị xã P.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Đắc S (tên gọi khác: T G), sinh ngày: 08/7/1994, tại Bình Phước; nơi cư trú: khu phố 2, phường P, thị xã P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: phật giáo; số CMND: ****; con ông Nguyễn Đắc N, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1962; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 16/02/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa 2. Nguyễn Tấn Đ (tên gọi khác: Đ S), sinh ngày: 14/10/1993, tại Bình Phước; HKTT: khu phố 1, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước; nơi cư trú: thôn B, xã BT, huyện P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: phật giáo; số CMND: ****; con ông Nguyễn Tấn T và bà Ngô Thị H; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 16/02/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 03/11/2016, tại cửa hàng vật tư nông nghiệp “T T” tại khu phố 3, phường L, thị xã P, Trần Tiến Đ1 và Nguyễn Đắc S có xảy ra mâu thuẫn, Đ1 có hành vi dùng dao dí đuổi theo chém S. Khoảng 16 giờ ngày 05/11/2016, S và Nguyễn Tấn Đ đang chơi game tại cửa hàng Internet “N T” thuộc khu phố 5, phường L thì S có mượn xe mô tô loại Wave màu đỏ (không rõ biển kiểm soát) của T (không rõ nhân thân lai lịch) là người cùng chơi trong tiệm internet để chở Đ đi vào hướng trung tâm thị xã P chơi. Khi đi ngang qua cửa hàng phụ tùng xe máy “P T” tại khu phố 6, phường L thì S và Đ nhìn thấy Đ1 trong cửa hàng, S liền nói với Đ “về lấy hàng chém Đ1” thì Đ hiểu S nói về lấy dao lên chém Đ1, nghe vậy, Đ đã đồng ý (do trước đó Đ có nghe S kể về mâu thuẫn của S và Đ1). S điều khiển xe quay về nhà của mình tại khu phố 2, phường P lấy 02 con dao tự chế rồi chở Đ quay lại cửa hàng xe máy “P T”. Khi đến nơi, S dừng xe ngoài đường rồi lấy 02 con dao đưa cho Đ 01 con, S cầm 01 con rồi cả hai đi vào trong cửa hàng. Lúc này, Đ1 đang ngồi tại bàn tính tiền, mặt quay vào bên trong cửa hàng còn lưng quay ra phía ngoài đường nên S đi vào dùng dao chém một nhát trúng vào lưng của Đ1. Đ1 đứng dậy bỏ chạy thì bị Đ chém một nhát trúng vào tay của Đ1. Đ1 té xuống nền nhà thì S chém nhiều nhát vào tay, chân của Đ1. Còn Đ chém trúng vào chân của Đ1 (bút lục 87-90). Lúc này Đ1 xin S tha cho mình thì S và Đ bỏ đi. Sau đó, S điều khiển xe mô tô chở Đ đi về hướng đập ĐT vứt hai con dao xuống dưới đập rồi mang xe về lại tiệm internet trả cho T.Ngày 10/01/2017, Trung tâm giám định y khoa pháp y tỉnh Bình Phước có Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 335/2016/TgT, kết luận đối với thương tích của anh Trần Tiến Đ1 như sau:
- Chấn thương gãy lồi cầu ngoài xương đùi phải đã phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vis, hạn chế thực hiện gấp duỗi gối phải.
- Chấn thương gãy 1/3 dưới hai xương cẳng chân phải + gãy đầu trên xương mác phải đứt động mạch chày trước phải đã phẫu thuật cố định ngoài cẳng chân phải chữ T + nối động mạch chày trước phải tận tận.
-Vết thương đầu dưới sau cẳng chân trái hình “+” kích thước 6x4,5cm, tổn thương bắp chân trái.
- Sẹo lưng phải dài 14cm có diện nhiễm trùng kích thước 4x3cm.
- Sẹo thượng vị trái kích thước 2,5 x0,2cm.
- Sẹo 1/3 giữa trong sau cẳng tay trái kích thước 17x2,5cm.
- Sẹo mặt mu bàn chân phải kích thước 5x0,2cm.
- Mất ½ ngoài ngón V bàn chân phải.
Kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện nay là 54%. Trách nhiệm dân sự: anh Trần Tiến Đ1 yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 150.000.000đ, gia đình của các bị cáo đã bồi thường số tiền 95.000.000đ. Số tiền còn lại các bên đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vật chứng:
Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã thu giữ:
01con dao có phần lưỡi kim loại dài 30cm, chuôi dao được gắn bằng tre có quấn băng keo màu đen phía ngoài cán, chuôi dao hình tròn dài 39cm, phần chuôi dao gắn 01 sợi dây dù, bản dao rộng 5,5cm.
01 con dao có phần lưỡi kim loại dài 34,5cm, chuôi dao được gắn bằng tre có quấn băng keo màu đen phía ngoài cán, chuôi dao hình tròn dài 31cm, phần chuôi daogắn 01 sợi dây dù, bản dao rộng 05cm. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân dân thị xã P Tuyên bố 02 bị cáo Nguyễn Đắc S (T g) và Nguyễn Tấn Đ (Đ s) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 3 Điều 104; Điều 20; Điều 33; Điều 53; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc S (T g) 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2017.
Áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm d khoản 1 Điều 48; Điều 20; Điều 33; Điều 53; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ (Đ s) 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2017.
Ngoài ra án sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/6/2017, bị cáo Nguyễn Đắc S (T g) và bị cáo Nguyễn Tấn Đ (Đ s) có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi của mình như bản án sơ thẩm nhận định và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đắc S và bị cáo Nguyễn Tấn Đ. Sửa bản án sơ thẩm về phần áp dụng pháp luật không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình “có tính chất côn đồ” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1].Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: ngày 05/11/2016, bị cáo Nguyễn Đắc S và bị cáo Nguyễn Tấn Đ đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm chém nhiều nhát vào tay, chân và vùng lưng anh Trần Tiến Đ1 gây thương tích 54%. Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự. Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Khi thực hiện hành vi, các bị cáo nhận thức được việc dùng dao chém nhiều nhát vào người bị hại sẽ gây thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại, bị pháp luật ngăn cấm nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện thể hiện sự coi thường sức khỏe của người khác, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xử các bị cáo một mức án tương xứng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo thấy rằng:
Bị cáo S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo Đ là người không có mâu thuẫn gì với người bị hại nhưng lại cùng tham gia với bị cáo S gây thương tích cho người bị hại nên chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “có tính chất côn đồ”. Tuy nhiên, tình tiết này là một trong các tình tiết định khung quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo là không chính xác, cần sửa án sơ thẩm về phần áp dụng pháp luật.
[4].Xét thấy, các bị cáo có nhân thân tốt, sau khi thực hiện hành vi, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường một phần thiệt hại, khắc phục hậu quả cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo S có thời gian tham gia quân đội, người bị hại cũng có một phần lỗi khi trước đó có hành vi dùng dao rượt đuổi bị cáo S. Tòa sơ thẩm đã xử phạt bị cáo S mức án 06 năm tù và bị cáo Đ 05 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc, cần giảm một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho các bị cáo sớm hòa nhập với cộng đồng trở thành một người có ích cho xã hội.
Kháng cáo của các bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận.Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước là có căn cứ, được chấp nhận một phần.
Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo không phải chịu. Vì các lẽ trên :
QUYẾT ĐỊNH
[1].Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248; Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của của bị cáo Nguyễn Đắc S (T g) và bị cáo Nguyễn Tấn Đ (Đ s).
Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bình Phước. Tuyên xử:
[2].Áp dụng khoản 3 Điều 104; Điều 20; Điều 33; Điều 53; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc S(T g) 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ (Đ s) 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2017.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án phí hình sự phúc thẩm : các bị cáo không phải chịu.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án
Bản án 45/2017/HSPT ngày 24/07/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 45/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về