Bản án 45/2017/HNGĐ-ST ngày 26/12/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 45/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 12 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2016/TLST- HNGĐ, ngày 06/7/2016 về “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/12/2017 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1979

Địa chỉ: Số 311, tổ 4, ấp T, xã A, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Bị đơn: Ngô Văn C, sinh năm 1973

Địa chỉ: Số 21, ấp P, xã A, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 11/3/2016, các lời khai trong quá trình Toà án giải quyết và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh C cưới nhau ngày 06/10/1998 và chung sống với nhau, không có đăng ký kết hôn. Quá trình sống chung được khoảng 6 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, Chị T nhận thấy anh C không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ con mà ra ngoài quen biết với người phụ nữ khác, từ đó vợ chồng mâu thuẫn với nhau nên không chung sống nữa mà ra ở riêng khoảng 6 năm nay. Hiện nay Chị T không còn tình cảm với anh C vì vợ chồng sống ly thân thời gian đã lâu.

Nay chị Nguyễn Thị Thanh T yêu cầu được ly hôn với anh Ngô Văn C.

- Con chung: có 02 con chung tên Ngô Nguyễn Mỹ N, sinh ngày 02/12/1999 và Ngô Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 27/12/2004. Hiện N đã trưởng thành, V đang sinh sống với Chị T. Khi ly hôn Chị T yêu cầu được nuôi V, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung và nợ chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo các lời khai tại Tòa án bị đơn anh Ngô Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: anh và Chị T có tổ chức cưới và chung sống với nhau năm 1998, không có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2004 thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân do vợ anh tính hay ghen tuông không có căn cứ, vì anh C là giáo viên nên không có việc quan hệ tình cảm bên ngoài, anh C cũng có khuyên giải vợ anh nhưng Chị T không nghe, từ đó vợ chồng thường xuyên tranh cải với nhau. Vợ chồng anh hiện đã sống ly thân thời gian đã hơn 4 năm.

Nay Chị T xin ly hôn, anh đồng ý.

- Về con chung: có 02 con chung như Chị T trình bày, anh C đồng ý giao V, sinh ngày 27/12/2004 cho Chị T nuôi dưỡng, anh C không cấp dưỡng nuôi con. Đối với N đã trưởng thành nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình Tòa án giải quyết anh C có đơn yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho anh C được nhận 20 chỉ vàng 24k. Nay anh C rút lại yêu cầu chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết mà để vợ chồng tự thương lượng thỏa thuận phân chia.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự: thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp cũng như tư cách của người tham gia tố tụng, thu thập đầy đủ chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án. Về thời hạn chuẩn bị xét xử thẩm phán thực hiện đúng qui định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên toà Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng qui định tại các điều 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 14, 53, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Ngô Văn C; Về con chung công nhận sự thỏa thuận của anh, chị: Giao con Ngô Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 27/12/2004 cho Chị T n ôi dưỡng, anh C không cấp dưỡng nuôi con chung; Tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu phân chia nên không xem xét.

Đối với việc anh C có đơn rút yêu cầu chia tài sản chung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX đình chỉ giải quyết yêu cầu của anh C theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn anh Ngô Văn C theo qui định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) và anh C có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Ngô Văn C theo qui định tại các điều 227, 228 BLTTDS.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Ngô Văn C chung sống với nhau năm 1998 không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống do Chị T và anh C bất đồng ý kiến với nhau, nguyên nhân Chị T cho rằng anh C không quan tâm chăm sóc vợ con và có quen người phụ nữ khác, tuy nhiên anh C không thừa nhận. Từ đó vợ chồng anh chị thường xuyên tranh cải, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên Chị T và anh C đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay. Do không còn tình cảm với nhau, nay Chị T yêu cầu được ly hôn, anh C đồng ý.

Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 qui định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo qui định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng….”

Tại Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình qui định:

“ Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo qui định tại khoản 1 Điều 14 của luật này…”

Xét thấy Chị T và anh C chung với nhau như vợ chồng từ năm 1998 đến nay đã có đủ điều kiện kết hôn theo qui định của pháp luật nhưng anh, chị không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thanh T với anh Ngô Văn C theo qui định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung:

Tại phiên tòa Chị T yêu cầu được quyền nuôi con chung Ngô Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 27/12/2004 khi ly hôn, anh C không cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án tiến hành hòa giải về con chung anh C cũng đồng ý giao con Ngô Nguyễn Mỹ V cho Chị T nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng hiện tại cháu V đang sống với mẹ cuộc sống ổn định, Chị T cũng đảm bảo chăm sóc con về các điều kiện sinh hoạt, học tập; cháu V cũng có nguyện vọng được sống với Chị T khi cha mẹ ly hôn. Do vậy, xét việc thỏa thuận của anh, chị là có căn cứ và phù hợp với qui định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận. Đối với N đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên HĐXX không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Xét việc anh Ngô Văn C có đơn xin rút yêu cầu chia tài sản chung để vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, việc anh C rút đơn hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với qui định của pháp luật, do đó HĐXX chấp nhận và đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của anh C.

[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến về thủ tục tố tụng cũng như quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và hoàn trả cho anh C số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, 218, 219 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Pháp lệnh 10/2009 về án phí, lệ phí Tòa án.

 Xử :

- Về quan hệ vợ chồng: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Ngô Văn C.

- Về con chung: công nhận sự thỏa thuận giữa Chị T và anh C:

Chị Nguyễn Thị Thanh T được quyền nuôi con chung Ngô Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 27/12/2004 khi ly hôn (Chị T đang nuôi cháu V). Anh C không cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Thanh T và các thành viên trong gia đình của Chị T không được cản trở anh C đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của anh Ngô Văn C về việc yêu cầu được chia 20 chỉ vàng 24k. Chị T, anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T nộp 200.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng Chị T đã nộp ngày 06/7/2016 theo biên lai số 00215 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Như vậy Chị T đã nộp xong án phí.

Hoàn trả cho anh Ngô Văn C số tiền tạm ứng án phí chia tài sản đã nộp 1.705.450 đồng theo biên lai thu số 10684 ngày 20/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày hôm nay tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2017/HNGĐ-ST ngày 26/12/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về