TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 450/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 453/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 477 /2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Anh T, sinh ngày 04 tháng 9 năm 1971;Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
Nơi cư trú: Tổ S, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên.
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:
10/10; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Con ông: Vũ Thanh C, sinh năm 1943, trú tại: Tổ S, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên; Con bà: Lê Thị T (đã chết); Gia đình có 04 anh, em. Bị cáo là con thứ hai; Vợ: Trần Thị P, sinh năm 1973 (đã ly hôn); Chưa có con.
- Tiền án: Tại bản án số 2232/HSPT/2000 ngày 24/10/2000 của Toà phúc thẩm tại Hà Nội Tòa án nhân dân Tối Cao xử phạt Vũ Anh T 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng và án phí 100.000 đồng. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/01/2008. Chưa chấp hành xong án phí và hình phạt bổ sung.
- Tiền sự: Không.
1 Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2021). (Có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Thanh C, sinh năm 1943. (Có mặt tại phiên tòa).
Địa chỉ: Tổ S, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên.
Người chứng kiến: Ông Hoàng Tấn P, sinh năm 1981;
Trú tại: Tổ S, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 6 giờ 30 phút ngày 11/6/2021 tổ công tác của Công an phường Trung Thành phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại đường Cách mạng tháng Tám thuộc tổ 6, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô BKS: 20B1- 379.67 đi trên vỉa hè có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Vũ Anh T. Quá trình kiểm tra T tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái 03 gói giấy màu trắng trong đó có 02 gói giấy màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa 01 mảnh viên nén màu hồng. T khai nhận đó là ma túy Heroine và ma túy hồng phiến vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành niêm phong thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với T theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của T 01 xe mô tô BKS: 20B1- 379.67, nhãn hiệu WAVE anpha.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân xác định toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của T có khối lượng 0,226 gam, lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T1; mảnh viên nén màu hồng có khối lượng 0.029 gam, lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T2.
Tại Bản kết luận giám định số 5013 ngày 18/6/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T1 là chất ma túy, loại Heroine; Mẫu các mảnh viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu T2 là chất ma túy, loại Methamphetamine.
Bản kết luận giám định số 1047 ngày 29/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Khối lượng chất bột màu trắng thu giữ ban đầu là 0,226 gam; khối lượng mảnh viên nén màu hồng thu giữ ban đầu có khối lượng 0,029 gam.
Tại cơ quan điều tra Vũ Anh T khai nhận: Khoảng 6 giờ ngày 11/6/2021, Vũ Anh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu WAVE anpha mang BKS: 20B1- 379.67 đi từ nhà đến khu vực đường Cách Mạng Tháng Tám thuộc địa bàn phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên mục đích tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây T có gặp 01 người đàn ông (không rõ tên tuổi địa chỉ) nhờ người này đi mua hộ 200.000 đồng tiền ma túy, người này đồng ý và cầm 200.000 đồng của T. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông này quay lại và đưa cho T 03 gói ma túy gồm 02 gói ma túy Heroine được gói bằng giấy màu trắng và 01 gói ma túy hồng phiến được gói bằng giấy bạc. Sau đó người đàn ông này bỏ đi, T cầm 03 gói ma túy này trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi được một đoạn thì bị Cơ quan công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.
Vật chứng của vụ án là:
- Xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn: đen, BKS: 20B1-379.67, số khung: Y049185, số máy: HC12E- 1249210 đã trả cho ông Vũ Thanh C, sinh năm: 1943, cư trú: Tổ S, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên để quản lý, sử dụng.
- 01 bì niêm phong ký hiệu số 5013/C09- TT2, bên trong chứa chất ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định. Hiện được chuyển đến bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 457/CT-VKSNDTPTN ngày 16/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Vũ Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo là đúng người đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS xử phạt Vũ Anh T từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu số 5013/C09- TT2, bên trong chứa chất ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định.
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Lời khai của bị cáo Vũ Anh T tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có căn cứ xác định: Hồi 6 giờ 30 phút ngày 11/6/2021, tại tổ 6, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Vũ Anh T có hành vi tàng trữ 0,226 gam Heroine và 0,029 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên phối hợp với Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.
Nội dung điều 249 BLHS quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
i, Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này ” Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.
[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đã có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích, do vậy bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt: Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò, cũng như nhân thân của bị cáo thì thấy rằng cần có có mức án nghiêm khắc để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính chất ngăn ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Tuy nhiên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản Điều 51và 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS nên Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị khi luận tội là phù hợp với hành vi phạm tôi bị cáo đã gây ra.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản gì để đảm bảo thi hành án, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với vật chứng là 01 bì niêm phong ký hiệu số 5013/C09- TT2, bên trong chứa chất ma túy và vỏ bao mẫu hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với vật chứng là xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn: đen, BKS: 20B1-379.67, số khung: Y049185, số máy: HC12E- 1249210 Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu là ông Vũ Thanh C quản lý, sử dụng, Hội đồng xét xử ghi nhận việc ông Vũ Thanh C đã nhận lại được tài sản.
[6] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[7] Về các vấn đề khác:
Đối với ông Vũ Thanh C là người cho Vũ Anh T mượn xe mô tô BKS:
20B1-379.67, ông C không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không xem xét xử lý là có căn cứ.
Đối với số ma tuý thu giữ, T khai nhờ một người đàn ông (không rõ lai lịch địa chỉ) mua hộ ma túy. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Vũ Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự;
1. Xử phạt: Vũ Anh T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/6/2021.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 329 của BLTTHS: Tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm Trung thi hành án.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS;
Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu số 5013/C09- TT2 (bên trong chứa mẫu hoàn lại sau giám định), mặt sau có các dấu tròn đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và chữ ký của các thành phần tham gia.
(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 547 ngày 11 / 8 /2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
Ghi nhận việc ông Vũ Thanh C đã được nhận lại 01 xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn: đen, BKS: 20B1-379.67, số khung: Y049185, số máy: HC12E- 1249210.
3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Vũ Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST sung ngân sách nhà nước.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án /
Bản án 450/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 450/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về