Bản án 449/2020/HSST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 449/2020/HSST NGÀY 25/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 440/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 472/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Đỗ Thiên L, sinh năm 1987, tại Đồng Nai (có mặt).

Nơi cư trú: 243A, khu phố 2, phường Tam Hòa, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn H, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không

Nhân thân: Ngày 04/6/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. L chấp hành xong bản án ngày 30/8/2011.

Bị bắt tạm giữ ngày 21/4/2020, chuyển tạm giam theo lệnh số: 542/LTG ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

2/ Đỗ Thị Thanh Thủy, sinh năm 1989, tại Đồng Nai (có mặt).

Nơi cư trú: 206, khu phố 4, phường Tân Tiến, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Viết L, sinh năm 1961 (đã chết) và bà Trần Thị B, sinh năm 1962; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có chồng, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ ngày 21/4/2020, chuyển tạm giam theo lệnh số: 543/LTG ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lương Hồng T, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Nơi cư trú: 693A, khu phố 5, phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Thiên L và Đỗ Thị Thanh Th quen biết nhau và đều là người sử dụng trái phép chất ma túy.

Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 20/4/2020, L đi đến khu vực nhà thờ Phúc Lâm thuộc phường Hố Nai, thành phố B, mua của người thanh niên (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Khoảng 10 giờ ngày 21/4/2020, Th sử dụng điện thoại có số thuê bao 0975203022 gọi vào số 0933860950 cho L hỏi mua ma túy, L đồng ý và hẹn giao ma túy cho Th tại khu vực ngã tư Amata thuộc phường Long Bình, thành phố B. Sau đó, L điều khiển xe mô tô biển số 47M9-4773, Th điều khiển xe mô tô biển số 60F2- 784.79 đến chỗ hẹn gặp nhau. Tại đây, L bán cho Th 01 gói ma túy với giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) nhưng do Th không đem theo tiền nên L điều khiển xe 47M9-4773 đi theo Th để lấy tiền.

Đến 11 giờ cùng ngày, khi L và Th điều khiển xe mô tô đi đến khu vực đường hẻm thuộc tổ 8, khu phố 1, phường Bình Đa, thành phố B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B kiểm tra, phát hiện, Th ném gói ma túy xuống đất ngay chân Th thì bị lực lượng Công an bắt giữ cùng tang vật.

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (Th, L khai là ma túy tổng hợp - hàng đá) đã được niêm phong có chữ ký của Th, L và dấu mộc của Công an phường Bình Đa, thành phố B.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số thuê bao 0975203022, số Imel: 868346020657415 của Th dùng để liên lạc mua ma túy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, số thuê bao 0933860950, số Imel: 810033600368266 của L dùng để liên lạc mua bán ma túy.

- Xe mô tô biển số 60F2-784.79 do anh Lương Hồng Tiến - sinh năm 1994, cư trú tại 693A, khu phố 5, phường Long Bình, thành phố B là chủ sở hữu. Anh Tiến cho Th mượn xe nhưng không biết Th sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả xe cho anh Tiến.

- Xe mô tô biển số 47M9-4773 do anh Hà Thanh Hậu- sinh năm 1980, thường trú tại Thôn Hợp Thành, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đứng tên chủ sở hữu. Anh Hậu khai: Vào năm 2017, anh Hậu đã bán xe 47M9-4773 cho một người (không rõ lai lịch). L khai: Vào ngày 21/4/2020, L mượn xe của một người tên Tú (không rõ lai lịch). Hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách xe mô tô biển số 47M9-4773 ra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại kết luận giám định số: 789/KLGĐ-PC09 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1534gam, loại Methamphetamine”

Tại bản cáo trạng số: 457/CT-VKSBH ngày 05/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Đỗ Thiên L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Đỗ Thị Thanh Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Thiên L từ 02 (hai) năm tù đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Thị Thanh Th từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: số lượng ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, số thuê bao 0933860950, số Imel: 810033600368266 của Đỗ Thiên L và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số thuê bao 0975203022, số Imel: 868346020657415 của Đỗ Thị Thanh Th sử dụng vào việc phạm tội.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo L: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo Th: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 10 giờ ngày 21/4/2020, tại khu vực ngã tư Amata thuộc phường Long Bình, thành phố B, bị cáo Đỗ Thiên L đã 01 lần bán cho bị cáo Đỗ Thị Thanh Th 01 gói ma túy tổng hợp với giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, tại khu vực thuộc khu phố 1, phường Bình Đa, thành phố B, bị cáo Th có hành vi tàng trữ trái phép 0,1534 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số: 789/KLGĐ-PC09 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1534gam, loại Methamphetamine”

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân các bị cáo biết rõ việc tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy pháp luật nghiêm cấm, nhưng để có ma túy sử dụng, các bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật. Nên cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Đỗ Thị Thanh Th nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đỗ Thiên L có nhân thân xấu: Ngày 04/6/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong bản án ngày 30/8/2011.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số: 789 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, số Imei: 810033600368266 của bị cáo Đỗ Thiên L và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO (điện thoại bị vỡ màn hình), số Imei: 868346020657415 của bị cáo Đỗ Thị Thanh Th sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

[6] Đối với đối tượng chưa rõ lai lịch có hành vi bán ma túy cho L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[V] Xe mô tô biển số 60F2-784.79 do ông Lương Hồng Tiến, sinh năm 1994, cư trú tại 693A, khu phố 5, phường Long Bình, thành phố B là chủ sở hữu. Ông Tiến cho bị cáo Th mượn xe nhưng không biết bị cáo Th sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả xe cho ông Tiến theo đúng quy định pháp luật nên không xem xét, giải quyết.

[8] Xe mô tô biển số 47M9-4773 do anh Hà Thanh Hậu, sinh năm 1980, thường trú tại Thôn Hợp Thành, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đứng tên chủ sở hữu. Anh Hậu khai: Vào năm 2017, anh Hậu đã bán xe 47M9-4773 cho một người (không rõ lai lịch). Bị cáo L khai: Vào ngày 21/4/2020, bị cáo L mượn xe của một người tên Tú (không rõ lai lịch). Hiện chưa xác định được chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách xe mô tô biển số 47M9-4773 ra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[9] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Đỗ Thiên L, Đỗ Thị Thanh Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thiên L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Đỗ Thị Thanh Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thiên L 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Thanh Th 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số: 789 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, số Imei: 810033600368266 của bị cáo Đỗ Thiên L và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO (điện thoại bị vỡ màn hình), số Imei: 868346020657415 của bị cáo Đỗ Thị Thanh Th sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án các bị cáo Đỗ Thiên L, Đỗ Thị Thanh Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Đỗ Thiên L, Đỗ Thị Thanh Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 449/2020/HSST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:449/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về