Bản án 449/2019/HSST ngày 20/12/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 449/2019/HSST NGÀY 20/12/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 20 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 223/2019/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 462/2019/HSST-QĐ ngày 25/11/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 129/2019/HSST-QĐ ngày 17/12/2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn L, sinh năm 1989 tại tỉnh Hải Dương; thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Sửa chữa điện thoại; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn C, sinh năm 1955 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1957; bị cáo có 04 anh, chị em ruột, bị cáo là thứ 4; tiền sự: Không có.

Tiền án: Ngày 30/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm xử phạt 8 tháng tù về tội Đánh bạc, theo bản án số 95, ngày 27/4/2018 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị tạm giữ ngày 20/4/2019 đến ngày 28/4/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Hoàng Văn C1, sinh năm 1996, tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Thôn D, xã Đ, huyện E, tỉnh Quảng Bình; tạm trú: 240/3 G, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Hoàng Ngọc B, sinh năm 1969 và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1969; bị cáo có vợ tên Mai Thị L, sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không có. Bị bắt giam ngày 20/4/2019 đến ngày 16/7/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3. Lưu Văn S, sinh năm 1988, tại tỉnh Vĩnh Phúc; thường trú: Thôn K, xã L, huyện M, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lưu Văn Th, sinh năm 1968 và con bà Trương Thị S, sinh năm 1963; có vợ Liên Thị L1, sinh năm 1987 (đã ly hôn); tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân: Ngày 28/11/2014, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 4 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Đánh bạc, theo bản án số 74.

Bị bắt giam ngày 20/4/2019 đến ngày 16/7/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo bị bắt truy nã ngày 10/12/2019, có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Tiến T2, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Lưu Văn S, Hoàng Văn C1, Phạm Văn L là bạn, khoảng 23 giờ ngày 19/4/2019, sau khi ăn uống xong, bị cáo S rủ C1, L về phòng trọ của S tại địa chỉ số 19 khu phố N, phường O, thị xã P, tỉnh Bình Dương chơi đánh bài, khi đến cả ba sử dụng bộ bài tây 52 lá chơi bài cào liên tố thắng thua bằng tiền, cả ba đặt tiền tẩy mỗi ván 50.000 đồng, sau đó tố lên từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng. Tất cả chơi đến 02 giờ ngày 20/4/2019, Công an phường O, thị xã P kiểm tra hành chính lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với các bị cáo.

Vật chứng thu giữ: Số tiền trên chiếu bạc 7.750.000 đồng, 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, số tiền 9.900.000 trong người các bị cáo.

Số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc như sau:

+ Lưu Văn S mang theo và sử dụng hết 5.650.000 đồng vào việc đánh bạc, khi chơi thua 1.900.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 1.400.000 đồng, thu trên chiếu bạc 2.350.000 đồng.

+ Hoàng Văn C1 mang theo và sử dụng hết 7.000.000 đồng vào việc đánh bạc, khi chơi thắng 2.250.000 đồng, khi bị bắt quả tang thu giữ trong người 8.500.000 đồng, thu trên chiếu bạc số tiền 750.000 đồng.

+ Phạm Văn L mang theo và sử dụng hết 5.000.000 đồng vào việc đánh bạc, khi chơi thua 350.000 đồng, khi bị bắt thu trên chiếu bạc số tiền 4.650.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 17.650.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 246/CT-VKS ngày 9 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Lưu Văn S, Hoàng Văn C1, Phạm Văn L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 8 đến 10 tháng tù.

Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn C1 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lưu Văn S từ 6 đến 8 tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá, tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 17.650.000 đồng.

Các bị cáo không tranh luận đối với Đại diện Viện kiểm sát, không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo nói lời sau cùng:

Phạm Văn L: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án thấp nhất cho bị cáo.

Lưu Văn S: Bị cáo hối hận việc mình đã làm, xin được giảm nhẹ mức án thấp nhất để sớm về với gia đình.

Hoàng Văn C1: Bị cáo rất hối hận, xin giảm nhẹ mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 20/4/2019, lời khai người làm chứng, biên bản ghi lời khai các bị cáo, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện. Đêm ngày 19 và rạng sáng ngày 20/4/2019 tại địa chỉ số 19 khu phố N, phường O, thị xã P, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phạm Văn L, Lưu Văn S, Hoàng Văn C1 sử dụng bộ bài tây 52 lá chơi bài cào liên tố thắng thua bằng tiền với tổng số tiền 17.650.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 246/CT-VKS ngày 9/7/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo S, C1 không có. Bị cáo Phạm Văn L chưa được xóa án tích tại bản án số 95 ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, quy định điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo C1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo L, S, C1 trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo C1 có nhân thân tốt thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo L, S có nhân thân xấu thể hiện việc các bị cáo đã có tiền án, đã bị xét xử về tội Đánh bạc. Sau đó phạm tội Đánh bạc tiếp thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật của các bị cáo.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 3 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng tại địa phương. Đánh bạc được xem là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự khác. Do vậy, hành vi trên của các bị cáo phải được xét xử nghiêm mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn do các bị cáo không có sự phân công, bàn bạc trong việc phạm tội. Bị cáo L, S và C1 tham gia với vai trò người thực hành.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo Phạm Văn L, Lưu Văn S cần xử phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo tự cải tạo, rèn luyện giáo dục bản thân sau này không vi phạm nữa. Đối với bị cáo Hoàng Văn C1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo cũng có tác dụng giáo dục, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Xét, bị cáo C1 là lao động chính trong gia đình, là người làm thuê, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng quy định khấu trừ một phần thu nhập khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo theo quy định khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình.

[5] Đối với vật chứng: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, vật chứng sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 17.650.00 đồng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng cũng như mức hình phạt đối với bị cáo L, S phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử được chấp nhận. Đối với mức hình phạt bị cáo C1 không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử vì vậy không được chấp nhận.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn L, Lưu Văn S và Hoàng Văn C1 phạm tội Đánh bạc.

1.1 Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 20/4/2019 đến ngày 28/4/2019.

1.2 Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Lưu Văn S 07 (bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/12/2019, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/4/2019 đến ngày 16/7/2019.

1.3 Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C1 08 (tám) tháng 08 (tám) ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giam 2 (hai) tháng 28 (hai mươi tám) ngày tương ứng với 08 (tám) tháng 08 (tám) ngày ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 17.650.000 đồng (mười bảy triệu, sáu trăm lăm mươi nghìn đồng) Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng Theo biên lai thu tiền số 01201, biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/7/2019.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Các bị cáo Phạm Văn L, Lưu Văn S và Hoàng Văn C1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

456
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 449/2019/HSST ngày 20/12/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:449/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về