TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 447/2023/DS-PT NGÀY 23/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 23 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2023/TLPT-DS ngày 14 tháng 7 năm 2023 về tranh chấp “Đứng tên quyền sử dụng đất và đòi quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 90/DS-ST/2023 ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 697/2023/QĐ-PT ngày 24 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Cụ Nguyễn Thị O, sinh năm: 1927 Địa chỉ: ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1973.(Có mặt) Địa chỉ: ấp HP 1, xã Hậu Mỹ Bắc A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Văn bản ủy quyền ngày 12 tháng 11 năm 2021.
Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm: 1976 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang Nơi cư trú hiện nay: số 25 đường Nguyễn Văn Đại, khu phố 3, phường 1, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Nguyễn Thị G: Ông Trần Thanh H là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Thanh H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang.
2. Ông Lưu Văn Th, sinh năm: 1963 (Có mặt).
Địa chỉ: ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Nguyễn Thị G: Ông Trần Thanh H là Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Thanh H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị G và Lưu Văn Th.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị O là bà Nguyễn Thị S trình bày: Theo nội dung quyết định của bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 89/2010/HNPT ngày 06 tháng 12 năm 2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xử:
“…Ghi nhận chị G hoàn trả cho bà Ở ½ tổng diện tích của 03 thửa: 1011, 1083, 1504. Chị G được tiếp tục đứng tên quyền sử dụng đất đối với 03 thửa nêu trên… Buộc anh Lưu Văn Th phải hoàn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các thửa: thửa 673 (bà Ở có diện tích 1.861m2)…” Do bản án tuyên bà G giao ½ tổng diện tích của 03 thửa: 1011, 1083, 1504 cho cụ O canh tác nhưng cụ không được đứng tên quyền sử dụng đất đối với ½ tổng diện tích của 03 thửa đất này và không tuyên tứ cận giáp với ai; bản án cũng tuyên buộc ông Th trả lại cụ O 1.861m2 đất lúa nhưng cũng không tuyên tứ cận giáp ai. Do bản án phúc thẩm số 89/2010/HNPT ngày 06 tháng 12 năm 2010 tuyên không rõ ràng nên Cơ quan Thi hành án không thi hành được nên cụ Ocó đơn yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xem xét kháng nghị tái thẩm đối với bản án phúc thẩm số 89/2010/HNPT, bà G có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xem xét kháng nghị tái thẩm đối với bản án phúc thẩm số 89/2010/HNPT. Vì không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nên Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có thông báo không kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 89/2010/HNPT ngày 06 tháng 12 năm 2010. Do trước đây cụ Ocòn ở chung với bà G nên chưa có nhu cầu sử dụng đất, nay cụ Ođã sống riêng bà G và có nhu cầu sử dụng đất. Nay cụ Okhởi kiện yêu cầu bà G chia cho cụ được đứng tên ½ tổng diện tích của 03 thửa đất gồm thửa 1011, 1083, 1504 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, cụ yêu cầu được nhận vị trí đất giáp với đất bà Đỗ Thị Lệ; yêu cầu ông Th trả lại cho cụ 1.861m2 nằm trong thửa đất số 673 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang có vị trí giáp với ông Nguyễn Văn Biền.
Bị đơn bà Nguyễn Thị G trình bày: Cụ Nguyễn Thị O là mẹ ruột của bà, năm 2010 trở về trước bà và ông Lưu Văn Th là vợ chồng sống chung nhà với cụ Ở, vợ chồng bà có nhiều mâu thuẫn xảy ra nên vợ chồng bà có yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang giải quyết ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng. Quyết định của bản án số 89/2010/HNPT ngày 06 tháng 12 năm 2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xác định 03 thửa đất số 1011, diện tích 404m2; thửa đất số 1083, diện tích 504m2 và thửa đất số 1504, diện tích 331,5m2 là tài sản chung của bà và ông Th nên bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị O.
Bị đơn ông Lưu Văn Th trình bày: Vào khoảng năm 2008 đến năm 2010 vợ chồng ông có nhiều mâu thuẫn xảy ra dẫn đến việc xin ly hôn, cụ Nguyễn Thị O cũng có xảy ra xích mích với vợ chồng ông nên tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm ông có trình bày là thửa đất số 673, diện tích 3.861m2 có 1.861m2 là của cụ Omua nhưng thực tế cụ Okhông có bỏ tiền ra mà thửa đất này là do cha ông là cụ Lưu Văn Thâu tặng cho vợ chồng ông chứ cụ Okhông có mua bán chuyển nhượng gì. Nay ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của cụ Ở.
Tại Bản án dân sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang áp dụng Điều 166, 219 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Điều 35, Điều 39, Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị O.
1. Buộc bà Nguyễn Thị G có nghĩa vụ để cụ Nguyễn Thị O đứng tên ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 đo đạc thực tế là 605m2 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được ký hiệu T1, T2, T3, T6, T8, T9 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất; ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 cụ Ođược đứng tên có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp phần đất bà Đỗ Thị L Hướng Tây giáp phần đất còn lại chia cho bà Nguyễn Thị G Hướng Nam giáp đất ông Nguyễn Văn B Hướng Bắc giáp đường tỉnh 865 (Có sơ đồ kèm theo) 2. Cụ Nguyễn Thị O tự nguyện tháo dở phần diện tích nhà là 17,4m2, mái che là 38,6m2, chuồng là 7,8m2 nằm bên phần đất bà G được ký hiệu T4, T5, T7 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất. (Có sơ đồ kèm theo) 3. Buộc ông Lưu Văn Th phải có nghĩa vụ trả lại cụ Nguyễn Thị O 1.861m2 đất nằm trong thửa đất 673 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được ký hiệu T2 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất; diện tích đất 1.861m2 ông Th trả cụ Ocó tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp phần đất ông Nguyễn Văn B1 Hướng Tây giáp phần đất còn lại của ông Lưu Văn Th Hướng Nam giáp bờ kênh Hướng Bắc giáp đất ông Lưu Văn T1 (Có sơ đồ kèm theo) 4. Cụ Nguyễn Thị O được quyền đăng ký đất đai đối với ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 đo đạc thực tế là 605m2 và 1.861m2 nằm trong thửa đất 673 cùng tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều 95 Luật đất đai.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 05/6/2023 và ngày16/6/2023, bị đơn Nguyễn Thị G và Lưu Văn Th có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Luật sư Trần Thanh H phát biểu quan điểm bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Thị G: Bản án sơ thẩm căn cứ vào Bản án 89 để giải quyết vụ án này. Năm 2010 thì bà Ở có yêu cầu độc lập tranh chấp đối với 03 thửa đất này. Tòa sơ thẩm và phúc thẩm xác định 03 thửa đất này là của ông Th và bà G. Bà G cũng có kháng cáo đối với phần 60 chỉ vàng, sau đó bà G rút đơn kháng cáo. Phần bản án trước đây tại tòa phúc thẩm bà G thay đổi ý kiến xin nhận bằng đất, không phù hợp với quy định pháp luật. Đối với thỏa thuận bà G trả lại ½ 3 thửa đất cho bà Ở là không có căn cứ vì đây là tài sản của bà G và ông Th. Bản án 89 chưa được giám đốc thẩm. Tại phiên tòa hôm nay bà G đưa ra được chứng cứ 3 thửa đất này là do bà G và ông Th mua. Do đó, cụ O đòi bà G 3 thửa đất này là không có căn cứ. Tòa sơ thẩm xử là không đúng nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Lưu Văn Th: Ông Th có trích lục hồ sơ cấp giấy đất cho ông Th, thể hiện ông Thâu cho vợ chồng ông Th, không phải do cụ Obỏ tiền ra mua nên cụ Okhông có quyền đòi lại. Đề nghị xem xét giám đốc thẩm bản án số 89.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Các đương sự cũng chấp hành theo đúng quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự.
- Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Thị G và Lưu Văn Th: Bản án sơ thẩm xử là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật. Bị đơn Nguyễn Thị G và Lưu Văn Th kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh nên không có căn cứ để chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị G và anh Lưu Văn Th lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Về xác định quan hệ tranh chấp giữa cụ Nguyễn Thị O với bà Nguyễn Thị G và ông Lưu Văn Th Tòa án cấp sơ thẩm xác định là chia tài sản thuộc sở hữu chung và đòi quyền sử dụng đất là chưa chính xác bởi lẽ cụ Okiện bà G để cụ O được đứng tên ½ 3 thửa đất đất tranh chấp với bà G và cụ Okiện ông Th để cụ Ođược đứng tên và sử dụng thửa đất mà cụ Otranh chấp với ông Th theo bản án số 89/2010/HNPT ngày 06/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang nên Tòa án cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ tranh chấp là yêu cầu được đứng tên quyền sử dụng đất và đòi tài sản.
[2] Về nội dung vụ án và xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị G và ông Lưu Văn Th:
- Cụ Nguyễn Thị O kiện chị Nguyễn Thị G và anh Lưu Văn Th theo Bản án số 89/2010/HNPT ngày 06/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Tại phần quyết định của bản án 89/2010 có đoạn: “Ghi nhận chị G hoàn trả cho bà Ở ½ tổng diện tích của 03 thửa: 1011, 1038, 1504. Chị G được tiếp tục đứng tên quyền sử dụng đất đối với 03 thửa nêu trên…” “Buộc anh Lưu Văn Th phải hoàn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các thửa: thửa 673 (bà Ở có diện tích 1.861m2)…cho bà Ở…”. Các thửa đất tranh chấp đều tọa tại ấp Hậu Qưới, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Xét việc cụ O tranh chấp yêu cầu để bà được đứng tên quyền sử dụng đất và đòi tài sản đối đối với chị G: Thực tế, sau khi có Bản án 89/2010 chị G vẫn là người đứng tên các thửa đất 1011, 1038,1504 mà không trả cho cụ Nguyễn Thị O ½ ba thửa đất mà Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã giải quyết. Do chị G là con ruột của cụ Onên tại Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xác định ½ ba thửa đất trên là của cụ Onên không có tứ cận, phía chị G cũng không tự nguyện thi hành án. Nay cụ Oyêu cầu được đứng tên ½ ba thửa đất nêu trên là có căn cứ pháp luật. Theo Phiếu xác nhận kết quả đo đạc ngày 5/8/2022 thì ½ ba thửa đất nêu trên có diện tích là 605 m2.
Xét việc cụ Otranh chấp đòi tài sản đối với anh Thái: Thực tế, sau khi có Bản án 89/2010 anh Thái vẫn là người quản lý, sử dụng 1.861m2 của thửa đất 673 nên việc cụ O yêu cầu anh Thái trả lại 1.861m2 đất này là có căn cứ pháp luật. Theo Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 05/8/2022 của Công ty TNHH Đo Đạc Đông Hải thì thửa đất tranh chấp có diện tích là 1861m2.
Theo quy định của pháp luật thì quyền sử dụng đất của cụ Ođối với đất tranh chấp đã được xác định tại Bản án phúc thẩm số 89/2010/HNPT ngày 06/12/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên do trước đây cụ Ở, bà G sống chung, các bên thỏa thuận Tòa án ghi nhận, không có nêu vị trí tứ cận nên không thi hành án được. Tại tòa phúc thẩm, ông Th thừa nhận trước đây ông Th và cụ O không có mâu thuẫn nên khi giải quyết thửa đất tranh chấp của hai bên Tòa án cũng không có nêu tứ cận nên không thi hành án được. Nay cụ O kiện bà G và ông Th nội dung đã nêu trên và Tòa sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ O là có căn cứ theo án lệ số 50/2021/AL1.
Bà G và ông Th kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng nên không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của Luật sư tham gia phiên tòa là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với một nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị G và ông Lưu Văn Th mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Tòa sơ thẩm buộc ông Lưu Văn Th phải chịu 8.374.500 đồng là chưa đúng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm của ông Th. Do sửa án sơ thẩm nên các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 293, khoản 2 Điều 308, Điều 313, và khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị G và Lưu Văn Th.
- Sửa một phần Bản án dân sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ Điều 166, 219 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Điều 35, Điều 39, Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị O.
1.1. Buộc bà Nguyễn Thị G có nghĩa vụ để cụ Nguyễn Thị O đứng tên ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 đo đạc thực tế là 605m2 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được ký hiệu T1, T2, T3, T6, T8, T9 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất; ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 cụ Ođược đứng tên có tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp phần đất bà Đỗ Thị L Hướng Tây giáp phần đất còn lại chia cho bà Nguyễn Thị G Hướng Nam giáp đất ông Nguyễn Văn B Hướng Bắc giáp đường tỉnh 865 (Có sơ đồ kèm theo) 1.2. Cụ Nguyễn Thị O tự nguyện tháo dở phần diện tích nhà là 17,4m2, mái che là 38,6m2, chuồng là 7,8m2 nằm bên phần đất bà G được ký hiệu T4, T5, T7 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất. (Có sơ đồ kèm theo) 1.3. Buộc ông Lưu Văn Th phải có nghĩa vụ trả lại cụ Nguyễn Thị O 1.861m2 đất nằm trong thửa đất 673 tọa lạc tại ấp HQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được ký hiệu T2 theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất; diện tích đất 1.861m2 ông Th trả cụ Ocó tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp phần đất ông Nguyễn Văn B1 Hướng Tây giáp phần đất còn lại của ông Lưu Văn Th Hướng Nam giáp bờ kênh Hướng Bắc giáp đất ông Lưu Văn T1 (Có sơ đồ kèm theo) 1.4. Cụ Nguyễn Thị O được quyền đăng ký đất đai đối với ½ tổng diện tích 03 thửa đất 1011, 1083, 1504 đo đạc thực tế là 605m2 và 1.861m2 nằm trong thửa đất 673 cùng tọa lạc tại ấpHQ, xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều 95 Luật đất đai.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị G và ông Lưu Văn Th mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ vào 600.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo các biên lai thu số 0011495 ngày 05/6/2023 và biên lai thu số 0012582 ngày 16/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè nên xem như đã nộp xong.
Các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 447/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 447/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về