Bản án 445/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 445/2020/HS-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 410/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 446/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1984 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 83/3 khu phố H, phường A Ph, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Ú (đã chết) và bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1953; bị cáo có 02 anh chị ruột, lớn sinh năm 1969, nhỏ sinh năm 1974; bị cáo có chồng tên là Huỳnh Phước Th, sinh năm 1981 (đã ly hôn); có 02 con ruột, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/5/2016, bị Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/01/2017; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2020; có mặt.

*Ni tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến:

1. Chị Nguyễn Thị Ngọc Th, sinh năm 1987; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Long Qu, sinh năm 1977; vắng mặt.

3. Anh Trà Thanh S, sinh năm 1996; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 15/6/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Ngọc S dùng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime có sim số 0345735375 thông qua mạng xã hội Zalo, gọi điện cho một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy và hẹn giao ma túy tại khu vực chợ D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Sau đó, S đón xe mô tô chở khách để đi đến điểm hẹn. S đưa cho người phụ nữ 600.000 đồng và nhận 01 gói nilon hàn kín chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, Sang về phòng trọ số B, dãy trọ số 925/44/37, tổ MB, khu phố T L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, lấy gói ma túy vừa mua giấu vào trong chiếc khẩu trang màu cam treo trên tường. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi S cùng với Nguyễn Ngọc Thu M và Nguyễn Quang L đang ngồi chơi trong phòng thì bị lực lượng Công an phường T Đ H phối hợp với Đội Cảnh sát điêu tra về tội phạm ma túy – kinh tế Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính phòng trọ số B thì S tự giác lấy số ma túy cất giấu trong khẩu trang giao nộp cho Công an, S khai nhận số ma túy trên là của S mua về để sử dụng, việc S cất giấu ma túy thì M và L không biết nên Công an phường T Đ H lập biên bản đầu thú đối với Nguyễn Ngọc S.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime có sim số 0345735375 và 01 khẩu trang màu cam.

Căn cứ Kết luận giám định số: 361/MT-PC09 ngày 22/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gữi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 0,4297 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 361/MT-PC09 ngày 22/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đi với người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Ngọc S (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 440/CT – VKS ngày 30 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước - Đối 01 (một) bì thư niêm phong, bên trong chứa ma túy có khối lượng ma túy số còn lại sau giám định có trọng lượng 0,3885g, loại Methamphetamine là vật cấm lưu thông nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với sim số 0345735375 và 01 khẩu trang màu cam, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15 tháng 6 năm 2020 tại phòng trọ số 04 dãy trọ số 925/44/37, tổ MB, khu phố T L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Công an phường T Đ H phối hợp với Đội Cảnh sát điêu tra về tội phạm ma túy – kinh tế Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính phòng trọ số B thì S tự giác lấy 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng là ma túy, có trọng lượng 0,4297 loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Ngọc S tàng trữ ma túy có khối lượng 0,4297 loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 440/CT-VKS ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được xóa tích đồng thời bị cáo là người nghiện ma túy. Tuy nhiên bị cáo là người nhiễm HIV nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án chưa được xóa và là người nghiện ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước - Xét 01 (một) bì thư niêm phong, bên trong chứa ma túy có khối lượng ma túy số còn lại sau giám định có trọng lượng 0,3885g, loại Methamphetamine là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét sim số 0345735375 và 01 khẩu trang màu cam, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Ngọc S (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime.

- Tịch thu sung tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong, bên trong chứa ma túy có khối lượng ma túy số còn lại sau giám định có trọng lượng 0,3885g, loại Methamphetamine; sim số 0345735375 và 01 khẩu trang màu cam.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/9/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 445/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:445/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về