Bản án 444/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 444/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 405/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 445/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Bị cáo: NGUYỄN PHÚC N, sinh năm 1978; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT : số ......, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Nơi ở: ......, phường H, quận Hoàng Mai, Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; tham gia Đảng, đoàn thể: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không: quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phúc Th ( đã chết) và con bà Trịnh Thị D; có vợ: Hoàng Thị T và 2 con, con lớn sinh năm 2012, con thứ 2 sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

*Nhân thân:

- Ngày 14/6/1997, Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử 10 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 28/4/1998.

- Ngày 17/10/2002, Toà án nhân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 38 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Ra trại ngày 03/7/2005.

- Ngày 09/5/2006, Uỷ ban nhân dân quận Hoàn Kiếm đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng . Về địa phương ngày 12/5/2008.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 14/11/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội.

Người bào chữa cho chị bị cáo: Ông Nguyễn Ánh Tm, Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội, (có mặt).

Người bị hại:

- Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1989; trú tại16 phố Lý Thái Tổ, phường Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội ( Vắng mặt).

- Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1984; trú tại ngõ 207 phố Bùi Xương Trạch, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NGUYỄN PHÚC N sinh năm 1978 và chị Hoàng Thị T sinh năm 1989 đều có HKTT, trú tại....., phường L, Hoàn Kiếm, Hà Nội là vợ chồng có đăng ký kết hôn, đã có 02 con chung. Trong thời gian chung sống bị cáo và chị T mâu thuẫn, từ giữa tháng 5/2018, chị T bỏ ra ngoài ở để 02 con cho bị cáo N nuôi và không chu cấp. Đến khoảng tháng 7/2019, chị T muốn gặp N và chu cấp thêm để nuôi các con nhưng N không đồng ý. Khoảng 10 h ngày 13/11/2019, N đã chủ động gọi điện thoại cho chị T và yêu cầu chị T không được làm ảnh hưởng đến cuộc sống của N và các con. N còn đe doạ “ Nếu còn gây ảnh hưởng nữa thì đừng có trách N”. Chị T lo sợ nên đã gọi điện thoại cho chị Hoàng Thị L (sinh năm 1984; trú tại ........, quận Thanh Xuân, Hà Nội) là chị ruột của T để kể về việc bị N gọi điện thoại đe doạ. Chị L đã gọi điện thoại cho N để can ngăn, yêu cầu N không được đánh hoặc đe doạ T nữa, 2 bên cãi nhau. Sau đó chị L hẹn gặp N tại khu vực Cầu Dậu, phường Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội để giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng bị cáo N. Trước khi đến chỗ hẹn, N về nhà tại ......, quận Hoàng Mai, Hà Nội lấy 01 con dao (loại dao chuyên dùng để thái thịt, dao dài 30cm, bản rộng 5cm, lưỡi sắc, đầu vát nhọn, phần cán gỗ dài 10cm) rồi bọc ni nông, kẹp dao ở gacbaga xe máy 29D1-542.50 sau đó đi xe đến chỗ hẹn.

Khoảng 12 h00 phút ngày 13/11/2019, tại khu vực ...., phía dưới đường vành đai ba trên cao (khu vực giữa hai chiều đường Nghiêm Xuân Yêm) thuộc địa phận xã T, huyện T, Hà Nội. Khi N đến có chị L và chị T, khi nói chuyện, giữa N và chị L cãi chửi nhau. N dùng tay phải tát chị L 01 cái nhưng chị L giơ tay đỡ được. N ra xe máy dựng ngay gần đó, lấy con dao đã mang theo từ trước, bỏ bọc nilon ra, cầm dao khua chém về phía chị L nhưng chị L tránh được nên chỉ bị vết xước rách da ở mi dưới mắt trái. Ngay sau đó, N tiến đến trước mặt, cách chị L khoảng 50 cm, tay phải cầm dao chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái vào vị trí ngang đầu, cổ chị L nhưng chị L cúi hụp xuống tránh được. Chứng kiến N chém chị L nên chị T sợ hãi bỏ chạy (đầu vẫn đội mũ bảo hiểm màu đen) thì bị N cầm dao đuổi theo. Chị T chạy ra đường Nghiêm Xuân Yêm được khoảng 20mét thì bị N túm được áo phía sau gáy chị T giữ lại, bước ra đứng trước mặt chị T, lúc này chị T vẫn đang đội mũ bảo hiểm và giơ tay lên ôm đầu thì bị N cầm dao trên tay phải chém nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào đầu chị T nhưng do chị T giơ hai tay lên đầu để đỡ nên dao chém vào cạnh bàn tay trái chị T. Thấy N đang chém chị T nên chị L cầm guốc cao gót đang đi bổ vào tay N, N quay ra dùng dao chém trúng ngón 4, 5 bàn tay phải của chị L. Chị L bị thương ở tay nên lùi lại, N chém tiếp vào đầu chị T, nhưng chị T vẫn đội mũ bảo hiểm và do mũ bị xô lệch nên đã trúng vào đầu phía trên vùng trán bên trái chị T. Tiếp ngay sau đó, N tiếp tục chém trúng vào mũ bảo hiểm chị T đang đội làm lưỡi dao bị gãy, rời ra khỏi chuôi dao văng vào phần đất ở giải phân cách cứng giữa đường Nghiêm Xuân Yêm. Khi dao gãy, N xô đẩy chị T vào khoảng đất giữa dải phân cách nhưng chị T vùng bỏ chạy, N đuổi theo chị T. Chị T chạy được khoảng 10mét đến 15mét mệt quá ngồi xuống tháo mũ bảo hiểm ra (lúc này mũ bảo hiểm chưa bị vỡ nát) và nằm xuống đường. Khi chị T nằm ra đường, N chạy tới đá thêm một nhát vào phần hông chị T và chửi “Đ.. con mẹ mày”. Tại thời điểm đó, quần chúng nhân dân đã can ngăn không cho N đánh chị T nữa và gọi điện báo đồn Công an Cầu Bươu đến, kịp thời bắt giữ N đưa về trụ sở, thu giữ được con dao hung khí. Chị T và chị L được quần chúng nhân dân đưa đi bệnh viện cấp cứu.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 14h10 phút ngày 13/11/2019, tại ngã 4 đường Nghiêm Xuân Yêm- Kim Giang, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội xác định:

“…… Hiện trường nơi xảy ra sự việc xảy ra tại ngã 4 Nghiêm Xuân yêm- Kim Giang thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì , Hà Nội.

Phía Bắc là đường Kim Giang hướng đi Đại Kim, phía Nam là đường Kim Giang hướng đi Thanh Liệt , hướng Đông là đường Nghiêm Xuân Yêm hướng đi Linh Đàm, hướng Tây là đường Nghiêm Xuân Yêm hướng đi Khuất Duy Tiến.

Đường Nghiêm Xuân Yêm hướng đi Khuất Duy Tiến rải nhựa bằng phẳng , rộng 17,60m. Điểm mở của dải phân cách cứng giữa đường Nghiêm Xuân Yêm được chia làm 02 chiều có dải phân cách cứng ở giữa chiều Đại Kim đi Thanh Liệt rộng 14,20m Tại vị trí số 1 là xe moto Biển kiểm soát: 15B2-939.47 dừng ở sát mép dải phân cách cứng ở giữa đường theo chiều Đại Kim đi Thanh Liệt, đầu xe hướng về Thanh Trì , đo từ tâm trục bánh trước vào mép đường dải phân cách là 0,30m, đo từ tâm trục bánh sau vào mép đường trên là 0,77m. Đồng thời đo ngang về hướng Đại Kim đến tâm trục bánh trước xe moto vị trí số 2 là 0,30m Tại vị trí số 2 là xe moto BKS 29D1-542.50 dừng ở sát dải phân cách bên phải theo chiều Đại Kim đi Thanh Liệt, đo từ tâm trục bánh trước vào mép đường trên là 0,40m, đo từ tâm trục bánh sau vào mép đường trên là 0,80m, đồng thời đo ngang về hướng Đại Kim đến giày cao gót vị trí số 3 là 1,50m.

Tại vị trí số 3 là giày cao gót bên trái màu đen kích thước (84 x 9 x 16)cm, trên giày để lại vết màu đỏ, đo từ giày vào mép dải phân cách bên phải theo chiều Đại Kim- Thanh Liệt là 1,73m đồng thời đo ngang về hướng Đại Kim đến mép đường bên trái Nghiêm Xuân Yêm theo hướng Linh Đàm đi Khuất Duy Tiến là 1,75m Tại vị trí số 4 là vết màu đỏ kích thước (224x162)cm, cách mép đường bên trái đường Nghiêm Xuân Yêm theo chiều đi Khuất Duy Tiến là 2,20m, đồng thời đo ngang về hướng Linh Đàm đến giày cao gót ở vị trí số 3 là 1,00m và đo ngang về hướng Khuất Duy Tiến đén tâm đám nhựa ở vị trí số 5 là 1,83m. tại vị trí số 5 là đám nhựa vỡ kích thước (81x46)cm cách mép đường bên trái đường Nghiêm Xuân Yêm theo chiều đi Khuất Duy Tiến là 2,60m, đo ngang về hướng Khuất Duy Tiến đến tâm vết màu đỏ ở vị trí số 6 là 9,80m. Tại vị trí số 6 là vết màu nâu đỏ đạng nhỏ giọt kích thước (84x 150)cm nằm sát mép đường trên, đồng thời đo ngang về hướng Khuất Duy Tiến đến giày cao gót vị trí số 7 là 7,20m. Tại vị trí số 7 là giày cao gót màu đen bên phải kích thước (24x9x16)cm nằm sát mép đường trên đồng thời đo ngang về hướng Khuất Duy Tiến đến tâm vết màu đỏ ở vị trí số 8 là 2,80m. Tại vị trí số 8 là vết máu đỏ dạng nhỏ giọt kích thước (43x89)cm nằm sát mép đường trên. Mở rộng hiện trường không phát hiện dấu vết gì thêm

* Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số: 1042/TTPY ngày 21/11/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội kết luận thương tích của chị Hoàng Thị L:“Thương tích:

- Vết thương xước da nhẹ vùng trán trên cung mày trái kích thước 0,5 cmx 0,2 cm (không có trong Biên bản làm việc của Bệnh viện hữu nghị Việt Đức – Không cho điểm tỉ lệ tổn hại sức khỏe).

- Vết thương dưới má trái dưới mi mắt kích thước 1cm x 0,3 cm trên nền bầm tím. Mắt trái nề nhẹ sung huyết đỏ, chảy nước mắt (không có trong Biên bản làm việc của Bệnh viện hữu nghị Việt Đức – Không cho điểm tỉ lệ tổn hại sức khỏe).

- Vết thương mặt sau đốt 1 ngón IV tay phải hình chữ U kích thước 4cm x 0,4cm còn chỉ (Lật da và tổ chức dưới da).

- Vết thương bờ ngoài đốt 1 ngón V tay phải gần hết chu vi ngón kích thước 3,5cm x 0,5cm.

Kết luận:

1. Vết thương phần mềm mặt sau đốt 1 ngón IV tay phải: 02%.

2. Vết thương phần mềm bờ ngoài đốt 1 ngón V tay phải: 02%.

3. Nhiều khả năng các thương tích do vật có cạnh sắc gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 04% (Bốn phần trăm)”.

* Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 1065/TTPY ngày 28/11/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội kết luận thương tích của chị Hoàng Thị T:

“Thương tích:

- Vết thương vùng trán kích thước khoảng 1,5cm x 0,3 cm còn chỉ.

- Sưng nề bầm tím vùng chẩm trái kích thước 3cm x 4cm.

- Vết thương rách da mặt mu ngón II đốt 2 tay phải kích thước 1,5cm x 0,3 cm.

- Vết thương rách da mặt mu sát bờ ngoài xương bàn ngón I tay phải kích thước 1cm x 0,2 cm.

- Vết thương rách da mặt mu đốt 2 ngón III tay phải kích thước 1,5cm x 0,3cm.

- Vết thương rìa mặt ngoài mô út bàn tay trái kích thước 10cm x 0,4 cm còn chỉ.

Kết luận:

1. Các vết thương phần mềm đang liền sẹo: 08%.

2. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ di chứng các thương tổn. Đề nghị giám định bổ sung sau nếu có căn cứ.

3. Nhiều khả năng các thương tích do vật sắc gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 08% (Tám phần trăm).

Tại Kết luận giám định số: 7210/C09-P6 ngày 30/12/2020, của Cục C09 - Bộ Công an kết luận sau khi giám định USB có 03 (ba) tệp video nêu trên như sau:

“ Không tìm thấy dấu vết căt ghép chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 03 (ba) tệp video gửi giám định”.

Tại bản Kết luận giám định số: 3296/KL-PC09 ngày 04/5/2020, của Phòng PC09 - Công an Thành phố kết luận sau khi giám định đám nhựa vỡ kích thước trên diện (81x46)cm thu được khi khám nghiệm hiện trường (mũ bảo hiểm của chị T) như sau:

“ …Xác định được trên mũ bảo hiểm có vết xước mảnh dài, nhiều khả năng do vật tày cứng có cạnh sắc tạo ra (03 vết). Ngoài ra không xác định được nguyên nhân gây vỡ mũ bảo hiểm của chị Hoàng Thị T….”.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo NGUYỄN PHÚC N khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên có hành vi dùng dao chém chị L vào vùng mắt, đầu, tay như trên còn đối với chị T, N có dùng dao chém vào vị trí vùng đầu của chị T khi đang đội mũ bảo hiểm nhiều nhát nhưng có nhát trúng vào tay của chị T, còn trước khi lưỡi dao văng ra khỏi chuôi dao, N không chém vào mũ bảo hiểm của chị T mà do N vung dao chém tiếp chị L nhưng chém hụt nên lưỡi dao văng ra.

Vật chứng vụ án:

Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ các dấu vết và tang vật liên quan gồm:

- 01 xe máy Biển kiểm soát 15B2-939.47 (xe của chị Hoàng Thị L); 01 xe máy Biển kiểm soát 29D1-542.50 (xe của NGUYỄN PHÚC N): 01 đôi giày cao gót màu đen có kích thước (24x9x16)cm của chị Hoàng Thị L.; 01 mũ bảo hiểm màu đen bị vỡ phần nhựa còn dính với tấm lót nền màu đen kích thước trên diện (81x46)cm;

- 01 con dao dài khoảng 30cm, cán gỗ dài 10cm, bản rộng 5cm, lưỡi sắc, đầu vát nhọn, phần cán gỗ đã bị bung ra khỏi phần chuôi dao; 01 chiếc mũ lưỡi trai bằng vải màu ghi có dính nghi là vết máu khô; Quá trình rà soát, thu 01 USB bên trong có chứa video ghi lại nội dung vụ việc do người dân giao nộp.

* Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS: 15B2-939.47 do chị Hoàng Thị T sử dụng khi gặp NGUYỄN PHÚC N. Quá trình điều tra xác định chị T là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô trên nên đã trả cho chị T.

* Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29D1-542.50 (Số máy: 5036919; Số khung: 036884) qua điều tra xác định là tài sản của bà Trịnh Thị Dung là mẹ đẻ của bị cáo NGUYỄN PHÚC N. Xét không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 111 trao trả cho bà Trịnh Thị Dung chiếc xe trên.

Trách nhiệm dân sự: Chị Hoàng Thị L và Hoàng Thị T không yêu cầu NGUYỄN PHÚC N bồi thường.

Cáo trạng số: 344/CT-VKS-P2 ngày 15/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo NGUYỄN PHÚC N về tội “Giết người” theo Điểm a, n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bị cáo khai không có ý thức tước đoạt tính mạng của chị L và chị T, bị cáo khai nhận có hành vi dùng dao chém về phía chị L vào vùng mắt, đầu, tay như trên còn đối với chị T, N có dùng dao chém và cán dao đập vào vị trí vùng đầu của chị T khi đang đội mũ bảo hiểm nhiều nhát có nhát trúng vào tay của chị T, còn trước khi lưỡi dao văng ra khỏi chuôi dao, N không chém vào mũ bảo hiểm của chị T mà do N vung dao chém tiếp chị L nhưng chém hụt nên lưỡi dao văng ra.

Bị cáo xác định hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nguyên nhân do vợ bị cáo bỏ nhà đi và quan hệ với người đàn ông khác để cho bị cáo 1 mình nuôi hai con nhỏ chị T vợ bị cáo không chu cấp nuôi con cùng bị cáo, sau khi bị cáo bị bắt mẹ bị cáo đã già bị cáo nhờ mẹ chỉ nuôi được con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016 để cho chị T nuôi nhưng chị T cũng không nuôi lại gửi con cho ông bà ngoại ở huyện miền núi tỉnh Nghệ An nuôi hộ, bị cáo đề nghị Hội Đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị hại có đơn xin vắng mặt không đề nghị bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm a, n Khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 15, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tội danh: Tuyên bố bị cáo NGUYỄN PHÚC N phạm tội “ Giết người”.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo NGUYỄN PHÚC N từ 12 năm tù đến 13 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy vật chứng đã thu giữ ( đã chuyển cho cơ quan thi hành án Hà Nội) Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Về đề nghị áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, Luật sư không có ý kiến. Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả không lớn, chưa xảy ra chết người, về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 15, 57 BLHS xem xét cho bị cáo hưởng mức án dưới khung thấp hơn đề xuất của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung:

[2.1] Về tội danh và hình phạt áp dụng với các bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, Kết luận giám định, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do có mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa NGUYỄN PHÚC N và chị Hoàng Thị T từ năm 2011 đến 2018. Tháng 5/2018, chị T và N không sống với nhau, N tự nuôi 02 con chung, chị T không chu cấp. Đến tháng 7/2019, chị T muốn gặp N và chu cấp thêm tiền nuôi dưỡng các con nhưng N không đồng ý dẫn đến việc T và N xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 10h00 ngày 13/11/2019, N đã gọi điện thoại cho chị T và đe doạ chị T không được làm ảnh hưởng đến cuộc sống của N và các con. Do sợ bị N hành hung nên chị T đã gọi điện thoại cho chị Hoàng Thị L (là chị gái T) để nhờ can thiệp với N. Chị L và N đã hẹn gặp để nói chuyện tại khu vực Cầu Dậu, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Khoảng12h00 phút cùng ngày 13/11/2019 hai bên gặp nhau tại khu vực chân Cầu Dậu, N và chị L xô xát, N tát chị L, nhưng chị L đỡ được , sau đó N dùng dao nhọn dài khoảng 30cm (bản rộng 5cm, lưỡi sắc, đầu nhọn) đâm vào mặt chị L nhưng chị L tránh được nên chỉ bị vết xước rách da ở mi dưới mắt trái. Ngay sau đó, N tiến đến trước mặt, cách chị L khoảng 50 cm, tay phải cầm dao chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái vào vị trí ngang đầu, cổ chị L nhưng chị L cúi hụp xuống tránh được. Chứng kiến N chém chị L nên chị T sợ hãi bỏ chạy (đầu vẫn đội mũ bảo hiểm màu đen) thì bị N cầm dao đuổi theo. Chị T chạy ra đường Nghiêm Xuân Yêm cách khoảng 20mét thì bị N dùng tay trái túm được áo phía sau gáy chị T giữ lại, bước ra đứng trước mặt chị T, lúc này chị T vẫn đang đội mũ bảo hiểm và giơ tay lên ôm đầu thì bị N cầm dao trên tay phải chém nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào đầu chị T nhưng do chị T giơ hai tay lên đầu để đỡ nên dao chém vào cạnh bàn tay trái chị T. Thấy vậy chị L cầm guốc cao gót đang đi bổ vào tay N, N quay ra dùng dao chém trúng ngón 4, 5 bàn tay phải của chị L. Chị L bị thương ở tay nên lùi lại, N chém tiếp vào đầu chị T, nhưng chị T vẫn đội mũ bảo hiểm và do mũ bị xô lệch nên đã trúng vào đầu phía trên vùng trán bên trái chị T. Tiếp ngay sau đó, N tiếp tục chém trúng vào mũ bảo hiểm chị T đang đội làm lưỡi dao bị gãy, rời ra khỏi chuôi dao và văng vào phần đất ở giải phân cách cứng giữa đường Nghiêm Xuân Yêm. Khi dao gãy, N xô đẩy chị T vào khoảng đất giữa dải phân cách nhưng chị T vùng bỏ chạy, N đuổi theo chị T. Chị T chạy được khoảng 10mét đến 15mét thì bị ngất tại chỗ. N tiến đến dùng chân đá vào bụng chị T, ngay lúc đó quần chúng nhân dân đã kịp thời can ngăn và N bị bắt giữ thu giữ vật chứng.

Hậu quả: Thương tích của chị Hoàng Thị T là 08%; thương tích của chị Hoàng Thị L là 04%.

Hành vi của NGUYỄN PHÚC N mang tính chất côn đồ, N đã dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm,chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của chị T và chị L. Do người bị hại là chị L đã tránh được và chị T có đội mũ bảo hiểm nên chưa dẫn đến hậu quả bị tử vong là ngoài ý muốn của NGUYỄN PHÚC N.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, vì mâu thuẫn nhỏ nhặt nhưng cố tình chém nhiều nhát vào vùng đầu chị L và Chị T là vùng nguy hiểm là xâm phạm đến tính mạng của chị L và Chị T. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm quyền được bảo vệ tính mạng của người khác, gây lo lắng trong xã hội.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Giết người” với tính tiết định khung “Giết 2 người trở lên” và.“ Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a. n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội giết người nhưng bị hại không chết, sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhưng do nguyên nhân ngoài ý nên chưa tước đoạt được tính mạng của chị T và chị L, tội phạm không được thực hiện đến cùng nên áp dụng Điều 15, 57 Bộ luật hình sự để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe và giáo dục chung.

Vì vậy chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo theo tội danh, khung hình phạt quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 và các điều luật áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị trong bản luận tội là có căn cứ đúng pháp luật.

[2.2] Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết.

[2.3]Về án phí: Bị cáo tuyên có tội nên phải chịu án phí theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 15, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo NGUYỄN PHÚC N phạm tội: “ Giết người”.

Phạt: Bị cáo NGUYỄN PHÚC N 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 14/11/2019.

Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 30 cm, 01 mũ lưỡi trai bằng vải, 01 đôi dày cao gót màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu đen.

(Vật chứng đã được bàn giao cho Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo biên bản bàn giao ngày 14/9/2020).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm .

Quyn kháng cáo: Bị cáo, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 444/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội giết người

Số hiệu:444/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về