Bản án 442/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 442/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 423/2019/HSST ngày 15/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 443/2019/HSST-QĐ ngày 18/11/2019 đối với bị cáo:

Trần Hữu B, sinh năm 1987; thường trú: Thôn D xã H, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn C, sinh năm 1959 và bà Bùi Thị X, sinh năm 1957; bị cáo có vợ tên Đào Thị Khánh H, sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 23/6/2019.

Bị hại: Anh Nguyễn Trung Tiến Đ, sinh năm 1997; thường trú: 87/44/72 đường H, Phường 3, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Đỗ Nguyệt Hồ T, sinh năm 1981; địa chỉ: 11 đường Đ phường 2, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Chị Đào Thị Khánh H, sinh năm 1985; địa chỉ: Khu phố Đ2, phường A, thị xã K, tỉnh Bình Dương.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn T1.

2. Anh Lê Đức M.

3. Anh Tăng Trần Thiện P.

4. Anh Châu Minh P1.

5. Anh Lê Đình H1.

6. Anh Huỳnh Minh H2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 30 phút, ngày 23/06/2019, anh Nguyễn Trung Tiến Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Winner biển số 59S2 – 751.90 đi phía trước, phía sau là 04 xe mô tô của các anh Nguyễn T1, Lê Đức M, Tăng Trần Thiện P, anh Châu Minh P1 (là bạn của Đạt) lưu thông trên đường Quốc lộ 1A hướng từ tỉnh Đồng Nai đi Thành phố Hồ Chí Minh. Khi tất cả lưu thông đến cây xăng Bình An địa chỉ khu phố Hiệp Thắng, phường Bình Thắng, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Đ điều khiển xe rẽ phải vào cây xăng đổ xăng, lúc này Trần Hữu B điểu khiển xe mô tô biển số 55P4 – 5527 chở vợ Đào Thị Khánh H ngồi sau lưu thông phía sau xe Đ làm B thắng (phanh) gấp xe. B nói “mẹ các ông đi xe kiểu gì vậy” rồi quay xe lại gặp Đ trong cây xăng, lúc này giữa Đ, B cãi nhau, thách thức đánh nhau, Đ dùng tay đấm vào mặt B gây chảy máu, B xông vào vật ngã Đ xuống đường, thời điểm này nhóm bạn của Đ, chị H, anh Lê Đình H1 (bạn của B) xông vào can ngăn giữa B và Đ. B, Đ không đánh nhau nữa nhưng tiếp tục cãi nhau, sau đó Đ đi bộ đến xe của Đ đang dựng gần cây xăng lấy cây côn trong ba lô đem ra, B chạy đến chỗ H1 đang đứng (H1 cầm cây tầm vông dài khoảng 1,2 mét) giựt cây tầm vông từ H1 đuổi đánh Đ, Đ bỏ chạy được 10 m thì B đuổi kịp, Đ chạy vòng quay lại bị B dùng cầm cây tầm vông đánh 01 cái trúng vào vùng mắt bên phải, Đ ngã xuống đường sau đó đứng dậy bỏ chạy. Thời điểm này nhóm bạn của Đ xông vào B thì H1 nhặt cây tầm vông dài khoảng 1m ở khu vực cây xăng đuổi nhóm bạn Đ (H1 không đánh ai), sau đó Công an phường Bình Thắng đến lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với B, Đ được đưa đi đến bệnh viện nhân dân 115 Thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu. Ngày 23/6/2019, anh Đ làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và giám định thương tích.

Vật chứng thu giữ: 01 cây tầm vông dài 1,2 m; 01 cây tầm vông dài 01 m, đối với cây côn nhị khúc của bị hại Đ bỏ lại tại hiện trường không thu hồi được.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0576/TgT/2019 ngày 02/07/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận tỷ lệ thương tích của anh Nguyễn Trung Tiến Đ như sau: Tổn thương mắt phải gây đụng dập nhãn cầu, xuất huyết tiền phòng, tụ máu hốc mắt phải hiện để lại thị lực mắt phải đếm ngón tay 1m (mù mắt phải), mắt trái bình thường, tỷ lệ thương tích 41%; Vết thương phía trên cung mày phải cắt ngang qua cung mày phải xuống mi trên mắt phải kích thước 04 x 0,2cm, xấu về thẩm mỹ, tỷ lệ 06%; Tổn thương nứt (vỡ) trần hốc mắt phải, tỷ lệ 05%; Vết thương mi dưới mắt phải kích thước 02 x 0,2cm, hiện chưa đánh giá được chức năng đóng mở mi mắt phải, tỷ lệ 01%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể áp dụng theo phương pháp cộng lùi do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 48%. Vật gây thương tích: Vật tày.

Chị Đào Thị Khánh H vào can ngăn bị cáo B và anh Đ đánh nhau, chị H bị rơi điện thoại bể kính màn hình, chị H đã nhận lại điện thoại và không có yêu cầu bồi thường. Đối với Lê Đình H1 dùng cây tầm vông đuổi nhóm bạn anh Đ nhưng không đánh, không gây thương tích cho ai. Công an thị xã Dĩ An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực An ninh trật tự H với số tiền 2.500.000 đồng.

Trong khi đánh nhau, B bị Đ đánh vào vùng mặt nhưng không gây thương tích B không yêu cầu xử lý đối với Đ. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Dĩ An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác với số tiền là 2.500.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên Tòa bị hại Nguyễn Trung Tiến Đ yêu cầu bị cáo B bồi thường tổng số tiền 300.000.000 đồng bao gồm chi phí điều trị thương tích, tiền công lao động, bồi dưỡng trong ngày nằm viện, tiền tổn thất tinh thần.

Cáo trạng số 439/CT-VKS -DA ngày 14/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Hữu B về tội Cố ý gây thương tích, theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Hữu B từ 6 năm đến 7 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự bồi thường cho bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo B bồi thường cho bị hại Đ số tiền sau, tiền thuốc có hóa đơn 5.398.000 đồng, tiền công phải nghỉ làm trong 01 tháng 27.000.000 đồng, tiền điều trị thương tích không có hóa đơn 1.000.000 đồng, tiền chi phí ăn uống, bồi dưỡng trong thời gian nằm điều trị 10.000.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 30 tháng lương tương ứng 44.700.000 đồng, tổng các khoản 88.098.000 đồng, phía gia đình bị cáo B đã bồi thường 40.000.000 đồng, khoản còn lại 48.098.000 đồng buộc bị cáo B bồi thường tiếp.

Bị cáo B không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo B nói lời sau cùng: Bị cáo hối hận việc mình làm, bị cáo xin lỗi bị hại, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án thấp nhất để sớm về gia đình.

Bị hại Nguyễn Trung Tiến Đ: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức bồi thường 300.000.000 đồng tổng các khoản cho bị hại, vì hiện bị hại đã bị mù mắt, đối với hình phạt bị cáo, đề nghị xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 23/6/2019, lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận giám định pháp y thương tích ngày 02/7/2019, thể hiện vào lúc 20 giờ 30 ngày 23/6/2019, khi lưu thông trên đường giữa bị cáo Trần Hữu B và bị hại Nguyễn Trung Tiến Đ mâu thuẫn cãi nhau, thách thức đánh nhau, Đ đánh vào mặt B gây chảy máu, B vật đạt xuống đất được mọi người can ngăn, sau đó Đ chạy đi lấy côn nhị khúc mang theo ra thì bị B lấy 01 cây tầm vông dài khoảng 1, 2 m đuổi đánh Đ, B dùng cây đánh Đ 01 nhát trúng vào vùng mắt bên phải của Đ gây thương tích 48%, vật gây thương tích là vật tày. Như vậy, hành vi trên của bị cáo B đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c (dùng hung khí nguy hiểm) khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 439/CT– VKS ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo B thực hiện là rất nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 10 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của anh Nguyễn Trung Tiến Đ được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo B mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo B không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tác động gia đình nộp 40.000.000 đồng bồi thường 01 phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo phạm tội do có một phần lỗi của bị hại do đánh bị cáo trước; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết giảm nhẹ trên được quy định tại điểm b, e, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo B có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Trung Tiến Đ, bị cáo B không thống nhất về các khoản bồi thường. Căn cứ quy định pháp luật cũng như khoản thực tế bị hại bị thiệt hại. Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản bị hại được bồi thường như sau: Tiền thuốc có hóa đơn chứng từ 5.398.000 đồng, tiền chi phí xe đi cấp cứu, đi về, tái khám 1.000.000 đồng; tiền công lao động, tiền bồi dưỡng trong thời gian nằm viện của bị hại và người chăm sóc 10.000.000 đồng; tiền công do phải nghỉ việc không lao động được cho bị hại trong thời gian 2 tháng (27.000.000 đồng/ 1 tháng) là 54.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần 40 tháng lương (40 x 1.490.000 đồng) = 59.600.000 đồng. Tổng các khoản được chấp nhận 129.998.000 đồng, phía gia đình bị cáo B bồi thường 40.000.000 đồng, khoản còn lại 89.998.000 đồng buộc bị cáo B bồi thường tiếp cho bị hại Đ.

[5] Đối với quan điểm của Đại diện viện kiểm sát đưa ra về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và việc xử lý vật chứng phù hợp quan điểm của Hội đồng xét xử vì vậy được chấp nhận. Về mức hình phạt đối với bị cáo B có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xử mức hình phạt bị cáo B thấp hơn so mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Về phần trách nhiệm dân sự, xét bị hại Đ bị thương tích do tổn thương mắt dẫn đến mù mắt phải, do vậy về tổn thất tinh thần Hội đồng xét xử chấp nhận 40 tháng lương tối thiểu và tiền công lao động cho bị hại trong thời gian 2 tháng tính từ sau thời gian bị hại điều trị để buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo B phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Hữu B phạm tội Cố ý gây thương tích.

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, e, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Trần Hữu B 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2019.

2. Các biện pháp tư pháp:

2.1 Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585 và 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Trần Hữu B bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Trung Tiến Đ số tiền 89.998.000 đồng (tám mươi chín triệu, chín trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Tuyên trả cho bị hại Nguyễn Trung Tiến Đ số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) gia đình bị cáo Trần Hữu B đã nộp tại biên lai thu số 01349 ngày 20/11/2019.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2.2 Về vật chứng:

Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây tre tầm vông dài 1m; 01 (một) cây tre tầm vông dài 1,2m theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Trần Hữu B phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 4.499.900 đồng (bốn triệu, bốn trăm chín mươi chín nghìn chím trăm đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 442/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về cố ý gây thương tích

Số hiệu:442/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về