Bản án 44/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 534/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Anh T và bị cáo Nguyễn Thị Thanh L do có kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh D;

- Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Nguyễn Anh T, sinh năm 1975 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Khu phố 4, Phường M, thị xã B, tỉnh D; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:

12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Lộc và bà Hà Thị Tuyết, có vợ tên Nguyễn Thị Thanh L (là bị cáo trong cùng vụ án) và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17/7/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Hải An, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt); bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1982 tạitỉnh D; nơi cư trú: Khu phố 4, Phường M, thị xã B, tỉnh D, nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Dự và bà Nguyễn Thị Thanh Hồng, có chồng tên Nguyễn Anh T (là bị cáo trong vụ án) và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 02/3/2020 đến ngày 05/3/2020 chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa chỉ định cho các bị cáo Nguyễn Anh T, Nguyễn Thị Thanh L: Bà Nguyễn Thị Bích, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Long Cường, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Thanh L là vợ chồng có tài sản chung là thửa đất số 4911, tờ bản đồ số 07, diện tích 200 m2, tọa lạc tại xã Thới Hòa, huyện Bến Cát,tỉnh D do Ủy ban nhân dân huyện Bến Cát cấp ngày 22/9/2010 do Nguyễn Anh T đứng tên. Ngày 14/3/2016, T và L đến Văn phòng Công chứng Mỹ Phước ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Hoàng Thị Kim A tại hợp đồng công chứng số: 001728 với giá tiền ghi trên hợp đồng là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).

Sau đó, để có tiền giải quyết nhu cầu cá nhân, T lấy bản sao (copy) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã chuyển nhượng cho bà Kim A đưa cho đối tượng (không rõ lai lịch ở tỉnh Đồng Nai) mà T thông qua mạng xã hội quen biết để đặt làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) và giao nhận tại khu vực cầu Mới - thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Sau khi có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả, T liên hệ với bà Lê Thị Hằng nhờ tìm người thế chấp vay tiền. Hằng giới thiệu T cho bà Hoàng Thị Thảo để vay tiền thì được bà Thảo đồng ý cho T vay số tiền 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) trong vòng 01 tháng và T thế chấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả nêu trên. Gần đến hết thời hạn, Thảo yêu cầu T thanh toán số tiền vay thì T tiếp tục liên hệ với bà H nhờ tìm người khác cho vay tiền cao hơn để trả tiền cho Thảo và có thêm tiền tiêu xài cá nhân. Bà H giới thiệu bà Phan Thị Ngọc L1, qua trao đổi T được bà L1 đồng ý cho vay tiền, đồng thời T nói với bà L1 là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đang thế chấp cho bà Thảo với số tiền 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng).

Ngày 10/12/2017, T dẫn bà L1 đi xem thửa đất mà T định thế chấp cho bà L1 và chỉ nhà T tại đường D7, Phường M, thị xã B, tỉnh D cho bà L1 biết. Ngày 12/12/2017, T và L cùng với bà Phan Thị Ngọc L1 làm giấy “Thỏa thuận ủy quyền thế chấp đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” vay số tiền là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) tại nhà bà L1. T và L lấy thông tin từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên để thế chấp cho bà L1. Trước khi làm giấy thỏa thuận thì bà L1 và bà H đến nhà bà Thảo trả 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) cho bà Thảo lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của T về giữ để làm tin. Đến ngày 26/12/2017, T đến nhà bà L1 nhận thêm số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và ký nhận tiền vào giấy thỏa thuận ngày 12/12/2017.

Đến ngày 10/01/2018 T, L và bà L1 đến Văn phòng Công chứng Lưu Sử Trọng Nghiêm để ký hợp đồng vay tiền có biện pháp bảo đảm với số tiền vay là 820.000.000 đồng (tám trăm hai mươi triệu đồng) lãi suất 03%/tháng, thời hạn vay là 06 tháng, biện pháp bảo đảm là quyền sử dụng đất căn cứ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở mà T làm giả trước đó. Sau khi ký hợp đồng, bà L1 giao tiếp cho T, L số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Ngày 12/01/2018, T và L tiếp tục đến nhà bà L1 làm giấy mượn tiền vay thêm số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). T, L thỏa thuận với bà L1 trả lãi suất 02%/tháng, tiền lãi trả vào ngày 15 dương lịch hàng tháng, thời gian vay tiền là 05 tháng. Sau đó, T và L không trả lãi như thỏa thuận, ngày 08/8/2018 bà L1 đến nhà T và L đòi tiền thì T viết bản cam kết đến 18/8/2018 sẽ trả hết tiền gốc và tiền lãi cho bà L1 nhưng đến hẹn T và L vẫn không trả tiền. Ngày 10/9/2018, bà L1 làm đơn khởi kiện T và L gửi đến Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát để đòi tiền.

Ngày 19/9/2018, do lo sợ việc T và L làm đơn cớ mất rồi làm lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển nhượng cho người khác nên bà L1 đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đến Ủy ban nhân dân phường Thới Hòa làm thủ tục ngăn chặn giao dịch thì phát hiện là giấy giả. Ngày 02/10/2018, bà Phan Thị Ngọc L1 làm đơn tố giác hành vi trên của Nguyễn Anh T, Nguyễn Thị Thanh L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng,tỉnh D để xử lý, sau đó đơn tố giác được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công antỉnh D để xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng, tài liệu thu giữ: 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, số: BC776951, tên người sử dụng đất: Nguyễn Anh T, địa chỉ thường trú: Thị trấn Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương, đề ngày 22/9/2010 (bản chính).

Căn cứ Kết luận giám định số 364 ngày 12/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công antỉnh D kết luận: Phôi và hình dấu tròn trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: BC776951, tên người sử dụng đất: Nguyễn Anh T, địa chỉ thường trú: TT Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương, đề ngày 22/9/2010 (ký hiệu A) là giả.

Căn cứ Kết luận giám định số 111/GP-PC09 ngày 06/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công antỉnh D kết luận: Chữ ký, chữ viết, dấu vân tay trên giấy thỏa thuận ngày 12/12/2017 và trên hợp đồng vay tiền có biện pháp bảo đảm là của Nguyễn Anh T, Nguyễn Thị Thanh L ký, viết và in ra.

Ngày 15/12/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công antỉnh D bắt được Nguyễn Anh T tại Phường M, thị xã B, tỉnh D theo lệnh truy nã số 16 ngày 15/7/2019. Ngày 02/3/2020 Nguyễn Thị Thanh L đã đến đầu thú tại Công an Phường M, thị xã B, tỉnh D.

Từ ngày 27/9/2018 đến 02/12/2019, Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Thanh L nhiều lần trả lại cho bà Phan Thị Ngọc L1 với tổng số tiền là 315.000.000 đồng (ba trăm mười lăm triệu đồng).

Tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKS.P2 ngày 09/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dântỉnh D truy tố các bị cáo Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Thanh L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2020/HS-ST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dântỉnh D đã quyết định:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.1. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 54, 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 10 (mười) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2019.

1.2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 54, 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh L 01 (Một) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 02/3/2020 đến ngày 05/3/2020.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định số 51/QĐ/VC3-V1 ngày 02/10/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm một phần bản án hình sự sơ thẩm với nội dung: Bị cáo T không cung cấp được lai lịch của đối tượng làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bị cáo T và bị cáo L thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị hại nên chưa có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định và áp dụng khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự để xét xử đối với bị cáo. Nhưng hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015. Mặt khác Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo L 01 năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là quá nhẹ không phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi lẽ về tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo khi thực hiện tội phạm này thì bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó không có cơ sở để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo L về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm theo hướng: Tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh L; áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tăng hình phạt đối với bị cáo T về tội phạm này đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên Quyết định số 51/QĐ/VC3-V1 ngày 02/10/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo T và bị cáo L khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, nhưng mức hình phạt đối với bị cáo L về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là nhẹ, đề nghị tăng nặng hình phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh L đối với tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” từ 01 năm lên 03 năm tù;

Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội nhưng lại tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là không phù hợp, Viện kiểm sát xét thấy không đủ căn cứ để xét xử bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ căn cứ để xét xử về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị tuyên bố bị cáo T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự và đề nghị tăng hình phạt bị cáo đối với tội“Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” từ 06 tháng lên 03 năm tù. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 tội là 13 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T và bị cáo L trình bày ý kiến: Thống nhất theo tội danh và hình phạt mà bản án sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn luật định, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định từ tháng 12/2017 đến tháng 01/2018 bị cáo Nguyễn Anh T thuê người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Thanh L sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để thế chấp vay của bà Phan Thị Ngọc L1 tổng số tiền 1.000.000.000 đồng rồi chiếm đoạt. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T và bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét bị cáo Nguyễn Anh T đã cung cấp thông tin để thuê người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bị cáo T sử dụng giấy tờ giả vào việc lừa đảo bị hại Phan Thị Ngọc L1 để chiếm đoạt tiền. Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là đúng người, đúng tội. Bị cáo L không biết việc bị cáo T thuê người làm giấy chứng nhận nên bị cáo L không đồng phạm với bị cáo T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Do đó không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị về việc xác định bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, vừa xâm phạm đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản hợp pháp của người khác, vừa xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên cần xử phạt nghiêm đối với các bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn nhưng bị cáo T thực hiện tội phạm tích cực hơn so với bị cáo L nên hình phạt của bị cáo T cao hơn so với bị cáo L là phù hợp.

Đối với bị cáo L có nhiều tình tiết giảm nhẹ gồm: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú; đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo L có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên Bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo L 07 năm tù đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là tương xứng. Đối với tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” bị cáo L phạm tội lần đầu, với vai trò giúp sức trong vụ án đồng phạm giản đơn, nên bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 01 năm tù cũng là tương xứng với với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo L. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay không có tình tiết tăng nặng gì mới nên không chấp nhận kháng nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo L.

Đối với bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ gồm: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo T 10 năm tù đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ. Tuy nhiên, xét mức hình phạt về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo T, nên chấp nhận kháng nghị, tăng một phần hình phạt đối với bị cáo T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2020/HS-ST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh D về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Anh T.

2. Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 54, 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (một) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 10 (mười) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án.

2.2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 54, 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh L 01 (một) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Thị Thanh phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 02/3/2020 đến ngày 05/3/2020.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:44/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về