Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị L và anh H

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ L VÀ ANH H

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 23/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1992

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn H, sinh năm 1987

Cùng nơi cư trú: Thôn B, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt chị L, vắng mặt anh H)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/01/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đoàn Văn H tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện P vào ngày 18/9/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anhh H. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 6/2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không tu chí làm ăn, có chơi bời, cờ bạc, dẫn đến kinh tế gia đình khó khăn. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 10/2020, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, chị xin ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Đoàn Nguyên K sinh ngày 11/8/2017, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai 03/02/2021, bị đơn anh Đoàn Văn H trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận về thời gian, điều kiện hoàn cảnh kết hôn và thời gian mâu thuẫn như chị Phạm Thị L đã trình bày là đúng. Theo anh, nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế gia đình khó khăn dẫn tới vợ chồng thường xuyên xô xát. Nay chị L có đơn xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị L vẫn còn, anh không đòng ý ly hôn, anh đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ để vợ chồng cùng nhau nuôi dạy con chung, xây dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận, tiến bộ.

Về con chung: Anh xác nhận vợ chồng có 01 con chung như chị Phạm Thị L đã trình bày là đúng. Ly hôn, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị L cấp dưỡng cho con.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh với ông Đoàn Hồng H(bố đẻ anh Đoàn Văn H) và cơ sở Thôn B, xã Q, huyện P thấy: Chị Phạm Thị L và anh Đoàn Văn H là vợ chồng. Quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng thì gia đình và cơ sở không biết, do vợ chồng thường xuyên đi làm xa, hiện tại vợ chồng đã ly thân. Nay chị L có đơn xin ly hôn anh H gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị L và anh H có 01 con chung là Đoàn Nguyên K sinh ngày 11/8/2017, hiện đang ở với chị L. Nếu Tòa án giải quyết cho chị L và anh H ly hôn về giao con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản: gia đình và cơ sở không biết rõ. Hiện tại, anh H và chị L vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã Q, huyện P, gia đình và cơ sở thôn không biết anh H, chị L làm gì, thu nhập cụ là bao nhiêu.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật của bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Phạm Thị L được ly hôn anh Đoàn Văn H; Về con chung: giao con chung Đoàn Nguyên K sinh ngày 11/8/2017 cho chị Phạm Thị L trực tiếp nuôi dưỡng chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con. Anh H được quyền thăm nom con chung; Về tài sản: không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị L phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị L khởi kiện ly hôn và nuôi con chung với anh Đoàn Văn H, do anh H là bị đơn cư trú tại Thôn B, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Đoàn Văn H xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 52 ngày 18/9/2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh H. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 6/2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế gia đình khó khăn dẫn tới vợ chồng thường xuyên cãi vã xô xát. Mâu thuẫn căng thẳng vào ngày 10/2020, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, chị xin ly hôn anh H. Anh H xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không muốn ly hôn, anh có nguyện vọng đoàn tụ nhưng anh H không đưa ra được biện pháp nào có hiệu quả để hàn gắn cải thiện quan hệ vợ chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng anh H không có mặt, anh H không có thiện chí hòa giải đoàn tụ, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị L được ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị L và anh Đoàn Văn H có 01 con chung là Đoàn Nguyên K sinh ngày 11/8/2017. Ly hôn, chị L và anh H đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Xét nguyện vọng nuôi con của chị L và anh H là chính đáng, cả hai đều có điều kiện nuôi con ngang nhau. Tuy nhiên, con chung đang ở với chị L, lại đang trong độ tuổi cần sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của mẹ nên cần giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế của con chung và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L và anh Đoàn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị L và anh Đoàn Văn H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị L được ly hôn anh Đoàn Văn H.

2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Đoàn Nguyên K sinh ngày 11/8/2017 cho chị Phạm Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không yêu cầu anh Đoàn Văn H cấp dưỡng cho con.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không giải quyết.

4.Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị L đã nộp theo biên lai thu số 000708 ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đoàn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị L và anh H

Số hiệu:44/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về