Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp ly hôn giữa chị T và anh H

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH H

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 770/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 322/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 223/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31/12/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc Duy T; Sinh năm 1990;

Nơi cư trú: Số 769/44/32/21B đường A, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh;

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu H; Sinh năm 1991;

Nơi cư trú: Số 769/44/32/21B đường A, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh;

(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/08/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc Duy T trình bày:

Chị T và anh Nguyễn Hữu H chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, tỉnh E, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 20/2017, đăng ký ngày 17/3/2017.

Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị T và anh H bất đồng quan điểm sống, bất đồng về suy nghĩ và cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống vợ chồng, ông H không quan tâm chăm sóc gia đình. Mặc dù đã nhiều lần tự hòa giải, hàn gắn nhưng mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng hơn, giữa vợ chồng không còn tiếng nói chung, không chia sẻ được các vấn đề trong cuộc sống gia đình nên cả hai đã không còn chung sống từ tháng 03/2019 cho đến nay. Do đó, chị T nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn anh H.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Phương K, sinh ngày 01/8/2017.

Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn. Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị T tự xác định giữa chị T và anh H không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Chị T tự xác định giữa chị T và anh H không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu H đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi được lời khai, không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và xét xử, Tòa án đã chấp hành đúng các qui định của pháp luật về tố tụng dân sự, về thời hạn giải quyết vụ án đảm bảo theo quy định của pháp luật, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Duy T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Nguyễn Hữu H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để hòa giải mà vẫn cố tình vắng mặt. Do vậy, theo quy định tại Điều 207 của Bộ Luật tố tụng dân sự, vụ án không thể tiến hành hòa giải được.

Anh H đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập dự phiên tòa xét xử đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh H theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc Duy T có đơn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Duy T thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn là anh Nguyễn Hữu H hiện đang cư trú tại Quận 8 nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8 theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

Chị Nguyễn Ngọc Duy T và anh Nguyễn Hữu H chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, tỉnh E, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 20/2017, đăng ký ngày 17/3/2017, nên xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của chị T, chị T trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị T và anh H bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên gây tranh cãi, anh H không quan tâm và có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Dù chị T đã cố gắng hòa giải nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn sự chia sẻ và tôn trọng nhau, cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cả hai đã không còn chung sống từ tháng 03/2019 cho đến nay. Nên chị T yêu cầu được ly hôn. Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của chị T là có căn cứ cần giải quyết.

Xét thấy anh H đã được Tòa án triệu tập nhiều lần đến Tòa để tạo điều kiện cho hai bên hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng anh H vẫn vắng mặt và cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử, điều này thể hiện anh H không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh H không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được, nên yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ cần chấp nhận vì phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.2] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có một con chung tên: Nguyễn Phương K, sinh ngày 01/8/2017.

Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Phương K sau khi ly hôn. Chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét yêu cầu của chị T là phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình và đảm bảo quyền lợi của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao con chung Phương Thơ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T tự khai giữa chị T và anh H không có tài sản chung và không nợ gì của ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do chưa có ý kiến của anh H về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết, nếu sau này có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 207, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

Áp dụng:

- Các Điều 8, 9, 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13;

- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Duy T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc Duy T được ly hôn với anh Nguyễn Hữu H.

2. Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có một con chung tên: Nguyễn Phương K, sinh ngày 01/8/2017.

Giao con chung Nguyễn Phương K cho chị Nguyễn Ngọc Duy T trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh Nguyễn Hữu H cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết. Trường hợp có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), chị Nguyễn Ngọc Duy T phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0044269 ngày 21/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Chị T, anh H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b, và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp ly hôn giữa chị T và anh H

Số hiệu:44/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về