Bản án 44/2019/HS-PT ngày 15/03/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 44/2019/HS-PT NGÀY 15/03/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLPT-HS ngày 12-02-2019 đối với bị cáo Nguyễn Tấn A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Tấn A (P), sinh năm 1996 tại Kiên Giang.

Hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã M, huyện Đ, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Khu phố P, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Hòa hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị Kim L; chung sống như vợ chồng với Nguyễn Hồng L, sinh năm 1995 và có 01 con chung sinh năm 2016.

Tiền án; tiền sự: không.

Bị bắt tạm giam ngày 29-9-2018 (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án có bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại nhưng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tấn A và Tô Ngọc M nảy sinh tình cảm nam nữ từ cuối năm 2017. Trong khoảng thời gian từ ngày 14-8-2018 đến ngày 26-8-2018, A đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với M, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 16 giờ ngày 14-8-2018, A chở M đi chơi sau đó chở về phòng trọ của A ở khu phố P, phường M, thị xã P. Tại đây, A thực hiện hành vi giao cấu với M một lần.

Lần thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 25-8-2018, A chở M đi chơi. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 26-8-2018, A chở M vào thuê phòng số 11 của nhà nghỉ T ở khu phố P, phường M, thị xã P, để nghỉ. Tại đây, A thực hiện hành vi giao cấu với M một lần.

Ngày 26-8-2018, ông Tô Văn L là cha đẻ của M phát hiện sự việc đã làm đơn tố cáo hành vi của A đến cơ quan công an, đến ngày 29-9-2018 thì A bị bắt. Tại Cơ quan điều tra, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 223/TD ngày 18-9-2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận đối với Tô Ngọc M như sau: Không có dấu sây sát da hay bầm tím ở vùng bẹn đùi hai bên. Rách màng trinh cũ ở vị trí 5 giờ. Tìm không thấy tinh trùng trong dịch âm đạo.

Tại Kết luận giám định số 3886/C09B ngày 08-11-2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh - Viện khoa học hình sự kết luận: Không phát hiện thấy tinh trùng trong mẫu dịch âm đạo của Tô Ngọc M. Lưu kiểu gen của Nguyễn Tấn A tại Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3784/C09B ngày 13-9-2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh - Viện khoa học hình sự kết luận: Qua quá trình khám lâm sàng và kết quả cận lâm sàng, xác định tại thời điểm giám định (tháng 9-2018) Tô Ngọc M có độ tuổi từ 15 năm 05 tháng đến 15 năm 11 tháng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 04-01-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn A phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn A 03 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-9-2018.

Ngoài ra, bản án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 07-01-2019, bị cáo Nguyễn Tấn A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án cấp sơ thẩm tuyên là nặng.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, khai về diễn biến hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã nêu và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về vụ án: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” là đúng người, đúng tội. Mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Những lý do kháng cáo của bị cáo đã được Tòa cấp sơ thẩm xem xét nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn A gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, đối chiếu với lời khai của bị hại, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Tấn A và Tô Ngọc M sau thời gian quen biết đã nảy sinh tình cảm nam nữ. Trong khoảng thời gian từ ngày 14-8-2018 đến ngày 26-8-2018, bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với bị hại M khi bị hại trên 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi. Vì vậy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo: Mặc dù biết rõ cháu Tô Ngọc M chưa đủ 16 tuổi, khả năng nhận thức về vấn đề tình cảm và tình dục còn hạn chế nhưng bị cáo vẫn lợi dụng điều đó để quan hệ tình dục hai lần với cháu M. Hành vi phạm tội của bị cáo xâm hại trực tiếp đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của bị hại, ảnh hưởng xấu đến danh dự, tương lai của bị hại đang ở độ tuổi trẻ em, là đối tượng được pháp luật hình sự đặc biệt bảo vệ. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo mức án 03 năm 06 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, mặc dù bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là được người đại diện hợp pháp của bị hại xin bãi nại, nhưng xét mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức án của bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn A (P), giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn A (P) phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn A (P) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-9-2018.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 04-01-2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Tấn A (P) phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (15-3-2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

614
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-PT ngày 15/03/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:44/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về