Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôm nay, ngày 13/11/2019 tại trụ sở TAND huyện Th S - tỉnh Phú Thọ, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 230/2019/TLST-HNGĐ ngày 23/9/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70 ngày 11/10/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị V - sinh năm 1990.

Địa chỉ: Xóm Tr, xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Hà Văn Th - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Xóm Tr, xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ.

(Chị V có mặt, anh Th vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng chị Hà Thị V trình bày: Năm 2010, sau một thời gian tìm hiểu, chị và anh Th được tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã V M, huyện Th S, tỉnh Phú Thọ. Sau kết hôn vợ chồng ra ở riêng, vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian đầu (khoảng 01 năm) thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do do kinh tế gia đình khó khăn, chị phải đi làm ăn xa, anh Th ở nhà không chịu khó làm ăn, khi đó chị cũng có khuyên bảo anh Th nhưng anh Th không nghe dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2018, không còn quan tâm đến nhau và không còn quan hệ về mặt tình cảm. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Th không còn chị xin được ly hôn với anh Th.

*Vê con chung: chị V xác nhận có 02 con chung là cháu Hà Hoàng Xuân Tr - sinh ngày 01/11/2011 và Hà Quang Đại Ánh D sinh ngày 17/01/2014. Hiện nay cháu Tr đang ở cùng chị V còn cháu D đang ở cùng anh Th. Khi ly hôn chị tiếp tục xin nuôi cháu Tr, còn cháu D để anh Th nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

* Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: chị V xác nhận không có.

Bị đơn anh Hà Văn Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo qui định của phát luật thông qua bố đẻ anh là ông Hà Minh T. Ông T đã thông báo cho anh Th về việc Tòa án nhân dân huyện Th S thụ lý đơn chị V xin ly hôn anh nhưng anh Th vẫn cố tình vắng mặt không lý do.

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 30/9/2019, ông Hà Minh T cung cấp như sau: Anh Hà Văn Th và chị Hà Thị V tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã V M vào năm 2010. Sau kết hôn anh chị về chung sống ở gia đình ông tại xóm K, xã V M, huyện Th S. Trong quá trình chung sống vợ chồng anh chị có những mâu thuẫn nhỏ, chị V đi làm ăn từ năm 2018 sau đó không trở về sống cùng anh Th. Vợ chồng sống ly thân từ thời gian đó đến nay không còn quan tâm đến nhau. Giữa chị V và anh Th có 02 con chung là cháu Hà Hoàng Xuân Tr - sinh ngày 01/11/2011 và Hà Quang Đại Ánh D sinh ngày 17/01/2014. Hiện nay cháu Tr đang ở cùng chị V còn cháu D đang ở cùng anh Th. Trong quá trình anh chị sống ly thân anh Th làm việc tại địa phương, đến năm 2019 anh đi làm ăn xa, nhưng đã trở về địa phương từ ngày 18/9/2019. Các giấy tờ Tòa án giao, ông đều đã giao lại cho anh Th nhưng anh Th không có ý kiến gì.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Th S, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn cố tình trốn tránh không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình khi nhận được các thông báo cũng như các quyết định tố tụng của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 56, các điều 81. 82, 83 – Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hà Thị V, cho chị Hà Thị V được ly hôn với anh Hà Văn Th.

- Về con chung: Giao cho chị V được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Hà Hoàng Xuân Tr - sinh ngày 01/11/2011, anh Th tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Hà Quang Đại Ánh D sinh ngày 17/01/2014, kể từ tháng 11/2019 cho đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Không ai có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ với con chung theo qui dịnh của pháp luật.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Chị V không có yêu cầu giải quyết nên HĐXX Không xem xét.

- Về án phí: Chị V phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Chị Hà Thị V và anh Hà Văn Th, có nơi cư trú tại xã V M- huyện Th S- tỉnh Phú Thọ. Chị V có xin ly hôn anh Hà Văn Th và đề nghị Tòa án giải quyết về phần con chung khi ly hôn. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 –BLTTDS, Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn anh Hà Văn Th được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cố tình trốn tránh gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227- BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh Th.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hà Thị V và anh Th là hợp pháp, thể hiện tại đăng ký kết hôn số 11/2010, ngày 22/02/2010 do UBND xã V M cấp (BL02). Do quá trình chung sống cả hai bên không cùng nhau vun đắp xây dựng cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, bền vững nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn gay gắt. Theo chị V, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do khó khăn về kinh tế, anh Th không chịu tu chí làm ăn, chị cũng có khuyên bảo anh Th nhưng anh Th không thay đổi dẫn đến vợ chồng thường mâu thuẫn trầm trọng. Không thể tiếp tục kéo dài cuộc sống chung như vậy, cuối năm 2017, chị V tự về nhà bố và đã sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm đến nhau nữa. Phía anh Th đã biết việc chị V làm đơn xin ly hôn, nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án nhưng anh Th vẫn cố tình không đến để thể hiện ý chí của mình về nguyện vọng của chị V. Điều đó chứng tỏ anh Th không có ý thức hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với chị V, bỏ mặc cho chị V tự giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Xem xét các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ như kết quả xác minh và lời trình bày của ông T- bố đẻ anh Th(BL24, 30), phù hợp với lời trình bày của chị V tại phiên tòa đã chứng minh mâu thuẫn không thể hàn gắn trong quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh Th. Đủ cơ sở khẳng định tình trạng hôn nhân giữa chị V, anh Th đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị V xin ly hôn với anh Th là có căn cứ qui định tại khoản 1 Điều 56- Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay ,chị V đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Hoàng Xuân Tr - sinh ngày 01/11/2011, Anh Th đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Quang Đại Ánh D sinh ngày 17/01/2014. Xét điều kiện thực tế và nguyện vọng của cháu Tr, cháu D, HĐXX giao cho chị V được tiếp tục nuôi cháu Tr, giao cho anh Th tiếp tục nuôi cháu D, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Vì anh Th vắng mặt không có quan điểm , chị không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị V phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Các Điều khoản 1 Điều 56; Khoản 1+2 Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hà Thị V.

Cho chị Hà Thị V được ly hôn anh Hà Văn Th.

2. Về con chung: Giao cho chị Hà Thị V được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Hà Hoàng Xuân Tr - sinh ngày 01/11/2011. Anh Hà Văn Th được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hà Quang Đại Ánh D sinh ngày 17/01/2014, kể từ tháng 11/2019 cho đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản.

4. Về án phí: Chị Hà Thị V phải nộp 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị V đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0001877 ngày 23/9/2019 tại Chi cục dân sự huyện Th S.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã V M, huyện Th S để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo thủ tụC phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7, và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về