Bản án 44/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 44/2018/HS-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

44/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

53/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

ĐẶNG VĂN H; Đăng ký hộ khẩu thường trú: khu vực T1, phường T2, quận N, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Thợ xăm; Trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Đặng Văn L, sinh năm  1958 (sống) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958 (sống); bị cáo có 04 anh chị em lớn  sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1977; có vợ Nguyễn Thị Mỹ Q, sinh năm 1996; có 01  người con sinh năm 2018;Tiền sự: không; Tiền án: có 01 tiền án, ngày 18/9/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 15/6/2018; Bị tạm giữ từ ngày 05 tháng 8 năm 2018.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án   được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 05/8/2018, Đặng Văn H đang ở nhà tại khu vực T1, phường T2, quận N, thành phố Cần Thơ thì T (không rõ họ tên, địa chỉ) điện thoại kêu H đi lấy ma túy Tđã mua đem về cùng sử dụng. H nhờ một người bạn tên M (không rõ họ tên, địa chỉ) chở H đến xã A, huyện C, thành phố Cần Thơ. T cho H số điện thoại để liên hệ với người giao ma túy, H hẹn gặp người này tại địa điểm gần cầu đường bộ (không rõ địa điểm) để lấy ma túy. Sau khi lấy ma túy xong, H cất giữ gói ma túy trong túi quần đang mặc và nhờ M chở về N rồi T về nhà. Sau đó H điện thoại cho T nói đã lấy được ma túy thì T kêu K ra Thốt Nốt chở Hvề quán cà phê Thiên Kim thuộc ấp V, thị trấn V1, huyện V2, H ngồi chờ ở quán cà phê còn K thì đi rướt T. Khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày thì đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với công an thị trấn V1 bắt và khám xét khẩn cấp thu giữ trên người H 01 gói nilon không màu hàn kín, bên trong chứa các tinh thể không màu (nghi vấn là ma  túy).

Tại Kết luận giám định số 510/KL-PC54 ngày 10/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nilon, gửi giám định được niêm phong có dấu vân tay ghi tên Đặng Văn H là ma túy, khối lượng 0,5433 gam, loại Methaphetamine.

Tại Bản Cáo trạng số: 35/CT-VKSVT-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Đặng Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”  - Đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Đặng Văn H mức án từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù:

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy sau giám định số 510/KL-PC54 ngày 10/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như Cáo trạng đã mô tả, bị cáo rất ân hận mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận, để có ma túy sử dụng bị cáo đồng ý đi xã A, huyện C để lấy ma túy T đã mua về cùng sử dụng chung với T và K. Khi đã lấy được ma túy bị cáo ngồi chờ K đi chở T lại quán cà phê Thiên Kim thuộc ấp V, thị trấn V1 để cùng sử dụng thì bị lực lượng công an bắt và khám xét khẩn cấp thu giữ trên người bị cáo 01 gói nilon không màu hàn kín, bên trong chứa các tinh thể không màu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết luận giám định, kết luận  01 gói nilon, gửi giám định được niêm phong có dấu vân tay ghi tên Đặng Văn H là  ma túy, khối lượng 0,5074 gam, loại Methaphetamine.

Từ những tình tiết nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm  2017); điều 249, khoản 1, điểm c quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetamine, MDMA hoạc XLR - 11 có  khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, Cáo trạng 35/CT-VKSVT-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018, truy tố bị  cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất, tinh thần của người sử dụng, là nguyên nhân của các tội phạm khác như trộm cắp, cướp, cướp giật, thậm chí giết người... Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, nhằm tạo môi trường sống, học tập, lao động lành mạnh cho công dân và xã hội. Bị cáo mặc dù biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Do đó, cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân chấp hành nghiêm pháp luật và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội là “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1  Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần áp dụng cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy còn lại sau giám định số 510/KL-PC54 ngày 10/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ là vật cấm lưu hành. Do đó, căn cứ điểm a, c khoản khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

[09] Các vấn đề khác:

Quá trình điều tra, bị cáo cho rằng, nguồn ma túy của bị cáo là do người tên T mua điện thoại kêu bị cáo đi lấy, bị cáo được người tên M chở đến xã A để lấy ma túy. Sau khi lấy được ma túy thì T kêu K chở bị cáo từ quận N về quán cà phê Thiên Kim tại ấp V, thị trấn V, huyện V, rồi K đi rướt T lại quán cà phê để cả ba cùng sử dụng ma túy. Đối tượng tên T, M, K do không có họ tên và địa chỉ cụ thể nên điều tra không tiếp xúc làm việc được, đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau theo đúng quy định.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm   theo  quy  định  tại  khoản  2  Điều  136;  điểm  a  khoản  1  Điều  23  Nghị  quyết  326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[11] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt, điều luật áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử lý vật chứng là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,  Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

-  Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016  của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05 tháng 8 năm 2018.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ (Vật chứng được lưu giữ tại kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh theo Quyết định chuyển vật chứng số: 26/QĐ-VKS-VT ngày 04/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh)  4. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí  hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 44/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về