Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về không công nhận vợ chồng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 14 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 244/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018, về việc không công nhận vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXX-ST ngày 24 tháng 8 năm 2018 và Thông báo hoãn phiên tòa số: 06/TB-TA ngày 06 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm: 1986.

Địa chỉ cư trú: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trương Văn M, sinh năm: 1985.

Địa chỉ: Số 182/2, Ấp 2, xã L, huyện T, tỉnh A.

Tạm trú: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 8 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh M tự quen biết tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2010, hôn nhân tự nguyện, nhưng không có đăng ký kết hôn.

Chị và anh M chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng chung sống nhưng tính tình không hợp nhau, thường xuyên gây gỗ nhau, ngoài ra anh M thường xuyên chơi đánh bạc không lo làm ăn, chị có khuyên can nhưng anh M không nghe. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh M là vợ chồng.

- Về con chung: Chị và anh M không có con chung.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Bị đơn anh Trương Văn M trình bày:

- Về hôn nhân: Chị D trình bày cơ sở hôn nhân giữa anh và chị D như trên là đúng. Trong quá trình chung sống anh và chị D có xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị D đi làm xí nghiệp và có quen biết với nhiều người nên anh có ghen tuông dẫn đến gây gỗ nhau thường xuyên, từ đó cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa, mỗi người một quan điểm sống khác nhau. anh cũng muốn hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị D nhưng không được. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án không công nhận anh và chị D là vợ chồng.

- Về con chung: Anh và chị D không có con chung.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Trương Văn M có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh M là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị D, không công nhận chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M là vợ chồng. Về con chung: Chị D, anh M không có con chung. Về tài sản chung: Chị D, anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị D, anh M trình bày không có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị D phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trương Văn M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh M theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M chung sống với nhau từ năm 2010, nhưng không có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của hai anh chị không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình (năm 2014) thì không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh M là vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M không có con chung.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu tiền án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 9, Điều 14, Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M là vợ chồng.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M không có con chung.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M thống nhất không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Trương Văn M trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0021569 ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Chicục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Tây Ninh. Chị D đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

 Anh Trương Văn M không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị D có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh M có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 LuậtThi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1614
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:44/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về