TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 44/2018/DS-ST NGÀY 02/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỌ
Ngày 02 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2018/TLST-TCDS ngày 10/8/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp họ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-TCDS ngày 04 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị D, sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT: thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình
2. Bị đơn:
Ông Lê Quốc N, sinh năm 1970; Nơi ĐKHKTT: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình
Bà Trần Thị Hồng M, sinh năm 1961; Nơi ĐKHKTT: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình
Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lê Thị D trình bày: Do có mối quan hệ quen biết từ trước nên giữa chị Lê Thị D và ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M có thỏa thuận chơi họ có tính lãi, việc chơi họ đã kéo dài nhiều năm và đến kỳ mở họ thì ông N hoặc bà M mang tiền gốc và lãi đến cho chị. Hàng ngày ông N hoặc bà M đi thu tại chợ theo hình thức thu ngày và thu tháng. Chị D đã nộp cho ông N và bà M:
- ống thứ nhất, từ ngày 11/11/2015 (âm lịch) đến 10/6/2016 (âm lịch) là 04 tháng 10 ngày, mỗi ngày 100.000 đồng, tổng số tiền là 13.000.000 đồng;
- ống thứ hai, từ ngày 21/11/2015 (âm lịch) đến 20/3/2016 (âm lịch) là 04 tháng, mỗi ngày 50.000 đồng, tổng số tiền là 6.000.000 đồng;
- ống thứ ba và ống thứ tư từ ngày 11/12/2015 (âm lịch) đến ngày 20/3/2016 (âm lịch) là 03 tháng 10 ngày, mỗi ngày 500.000 đồng, tổng số tiền là 39.000.000 đồng;
Tổng số tiền cả 04 ống họ mà chị Lê Thị D đã nộp cho ông N và bà M là 58.000.000 đồng. Số tiền lãi chị D đã nhận của 04 ống họ là 3.800.000 đồng và số tiền họ của ống thứ hai đã nhận là 10.500.000 đồng. Đến ngày 20/3/2016, ông N, bà M tuyên bố vỡ họ nên không trả lại số tiền còn lại cho chị D.
Nay chị D yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N, bà M phải thanh toán cho chị một lần với tổng số tiền họ còn nợ là 43.700.000 đồng. Chị D không yêu cầu phải tính lãi.
- Tại bản tự khai ngày 11/9/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Trần Thị Hồng M và ông Lê Quốc N thống nhất trình bày: Ông N và bà M thừa nhận là do có mối quan hệ quen biết từ trước nên giữa ông bà và chị D có thỏa thuận chơi hụi có tính lãi. Chị D đã đóng 04 ống họ tổng cộng số tiền là 58.000.000 đồng và ông bà đã trả lại cho chị D số tiền ống hụi thứ 2 là 10.500.000 đồng và tiền lãi là 3.800.000 đồng. Do ông N và bà M đang gặp hoàn cảnh khó khăn, bị vỡ họ nên không có khả năng thanh toán một lần số tiền 43.700.000 đồng mà có nguyện vọng xin chị D cho ông bà được trả dần.
Ông N và bà M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng không có đăng ký kết hôn.
Ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q kết quả thể hiện: Tại hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã Q không thể hiện việc đăng ký kết hôn giữa ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến quá trình xét xử đều thực hiện đúng các quy định tại Điều 48, 51,70, 71, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch không có kiến nghị đối với vụ án này. Về nội dung vụ án, áp dụng Điều 479, Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005, buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ họ 43.700.000 đồng cho chị Lê Thị D. Ông N và bà M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn bà Trần Thị Hồng M có nơi cư trú tại thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình và ông Lê Quốc N có nơi cư trú tại thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Chị Lê Thị D yêu cầu ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M trả cho chị số tiền nợ họ là 43.700.000 đồng do vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hợp đồng góp họ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005.
[2] Xét yêu cầu của chị Lê Thị D về việc buộc ông N và bà M phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ họ là 43.700.000 đồng: Giữa ông N, bà M và chị Lê Thị D đã phát sinh giao dịch dân sự góp họ, ông N bà M là chủ họ, chị D là thành viên tham gia. Việc thỏa thuận hợp đồng góp họ giữa hai bên tuy không có xác lập bằng văn bản nhưng có giấy biên nhận giao họ và tại bản tự khai, biên bản hòa giải tại Tòa án ông N và bà M đều xác nhận hiện nay còn nợ chị D số tiền họ là 43.700.000 đồng. Do các bên đã tự nguyện giao kết hợp đồng dân sự góp họ, cụ thể là họ có lãi nên theo quy định tại Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 17 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về Họ, hụi, biêu, phường. Ông N và bà M là chủ họ đã vi phạm nghĩa vụ và theo quy định tại Điều 15, 29 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ thì ông N và bà M là chủ họ phải có nghĩa vụ trả lại cho chị D số tiền họ còn nợ là 43.700.000 đồng. Do chị D không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Hội đồng xét xử xét thấy, ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng theo biên bản xác minh ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch tại Ủy ban nhân dân xã Q thể hiện ông N và bà M không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy, ông N và bà M phải chịu nghĩa vụ liên đới đối với khoản nợ tiền họ 43.700.000 đồng của chị D theo quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự năm2005, theo đó, ông N và bà M mỗi người phải có nghĩa vụ trả nợ cho chị D số tiền nợ họ là 21.850.000 đồng.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy ông LêQuốc N và bà Trần Thị Hồng M phải liên đới chịu toàn bộ án phí vụ án là 2.185.000 đồng. Ông N và bà M mỗi người chịu 1.092.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Xét ông N và bà M có đơn xin giảm án phí, đơn trình bày có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và gặp sự kiện bất khả kháng có xác nhận của UBND xã Q nên áp dụng Khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án giảm 50 % mức án phí mà ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải chịu. Như vậy, ông N và bà M mỗi người phải chịu 546.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 479, Điều 298 của Bộ luật dân sự năm 2005; Khoản 1 Điều 13, Khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị D.
Buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Lê Thị D số tiền nợ họ là 43.700.000 đồng, theo phần mỗi người phải có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị D số tiền là 21.850.000 đồng (Hai mươi mốt triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng);
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M mỗi người phải chịu 546.000 đồng (Năm trăm bốn mươi sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Trả lại cho chị Lê Thị D số tiền tạm ứng án phí1.130.250 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch theo biên lai số 0001037 ngày 08/8/2018.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 02/11/2018).
Bản án 44/2018/DS-ST ngày 02/11/2018 về tranh chấp hợp đồng góp họ
Số hiệu: | 44/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về