TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PƯH, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 44/2017/HSST NGÀY 29/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 12 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2017/HSST, ngày 27/11/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Siu Đ, sinh năm 1998
Nơi ĐKHKTT: thôn Ia Bia, xã Ia Le, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Chỗ ở hiện nay: thôn Puối B, xã Ia Le, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ học vấn: 3/12. Dân tộc: Jrai
Con ông Rmah U (đã chết) và bà Siu H’N Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt theo lệnh truy nã và tạm giam ngày 13/9/2017 đến nay. Có mặt
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đàm T, luật sư cộng tác viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai.
Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai. Vắng mặt, có gửi trước bản bào chữa cho Tòa án
* Người bị hại:
1. Lê Ngọc T (B), sinh năm 1971, Võ Thị Bê, sinh năm 1972
Trú tại: Thôn Phú Hà, xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Có mặt
2. Lê Văn Q (Quang X), sinh năm 1970
Trú tại: Thôn Thủy Phú, xã Ia Le, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Đỗ H, sinh năm 1991
Trú tại: Thôn Thủy Phú, xã Ia Le, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Có mặt
2. Châu Văn H, sinh năm 1989
Trú tại: Thôn 2B, xã Ea H’leo, huyện Ea H’leo, tỉnh Gia Lai. Có mặt
* Người phiên dịch: Anh Nay Đức L, người dân tộc Jrai
Địa chỉ: Thôn Hòa Bình, thị trấn Nhơn Hòa, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai. Có mặt
NHẬN THẤY
Bị cáo Siu Đ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/8/2017, Siu Đ một mình đi bộ dọc đường liên thôn giữa thôn Thủy Phú với thôn Puối B, xã Ia Le, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai tìm kiếm nhà nào sơ hở để trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi ngang qua nhà anh Lê Văn Q (tên gọi khác: Q X - SN: 1970, trú: thôn Thủy Phú, xã Ia Le, huyện Chư Pưh), Đ phát hiện xe mô tô BKS: 81S1 - 093.96 (nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen) của anh Q đang dựng ở sân trước cửa nhà không có người trông coi, cổng nhà không đóng nên Đ đi đến xe mô tô quay đầu xe ra. Lúc này, cửa nhà anh Q mở, Đ nhìn vào trong nhà thấy chìa khóa xe để ở trên bàn trong phòng khách nhưng không có người nên Đ đi vào lấy chìa khóa ra cắm vào ổ khóa điện rồi nổ máy điều khiển xe mô tô trên đem đi cất giấu.
Sau khi bị mất tài sản, anh Q đã trình báo Công an xã Ia Le. Qua sàng lọc đối tượng, ngày 22/8/2017 Công an xã Ia Le đã tạm giữ hành chính Đ và tang vật là xe mô tô BKS: 81S1 - 093.96 mà Đ đã trộm cắp của anh Q. Công an xã đã bàn giao Đ và xe mô tô cho Cơ quan điều tra để xử lý theo thẩm quyền. Tại Cơ quan điều tra, Siu Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Quá trình điều tra mở rộng còn xác định: Khoảng 11 giờ ngày 18/8/2017, Siu Đ cũng một mình đi bộ đến địa bàn xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai tìm kiếm xe mô tô để trộm cắp. Khi đến thôn Thiên An, xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh, Đ phát hiện xe mô tô BKS: 81H3 - 6760 (nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ-trắng) của anh Lê Ngọc T (tên gọi khác: B-SN: 1971, trú: thôn Phú Hà, xã Ia Blứ, huyện Chư Pưh) đang dựng ở lô cao su không có người trông coi, chìa khóa xe cắm trong ổ khóa điện nên Đ đi đến nổ máy điều khiển trộm cắp chiếc xe trên. Sau đó, Đ mang xe đến bán cho anh Châu Văn H (SN: 1989, trú: thôn 2B, xã Ea Hleo, huyện Ea Hleo, tỉnh Đắk Lắk). Khi giao dịch mua bán, Đ hỏi anh H “Có mua xe này không”, anh H hỏi lại “Xe này bán bao nhiêu, có giấy tờ không” thì Đ trả lời “Xe này có giấy tờ nhưng bữa trước em đi xe ô tô bị móc túi lấy ví nên mất hết giấy tờ rồi, em bán 2.500.000đ”. Anh H hỏi tiếp “Xe này có phải là xe ăn cướp không” thì Đ nói “Không phải, xe này em mua, nhưng giờ không có tiền đổ xăng để đi về Gia Lai nên bán xe lấy tiền đi về”. Anh H nói “Xe mất hết giấy tờ mà bán cao vậy” và sau khi xem xe thấy toàn bộ dàn nhựa của xe đã cũ nên nói với Đ là “Mua 1.500.000đ, có bán không” thì Đ đồng ý bán xe với số tiền 1.500.000đ và tiêu xài cá nhân. Sau khi mua xe, Châu Văn H đã tháo bửng chắn gió hai bên của xe, tháo BKS: 81H3 - 6760 và thay BKS:47M4 - 9774 vào rồi sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện đi lại. Ngày 22/8/2017, Cơ quan điều tra đã làm việc với Châu Văn H và anh H đã giao nộp chiếc xe trên (có gắn BKS: 47M4 - 9774) cùng 01 BKS: 81H3 - 6760 và 02 tấm bửng chắn gió bằng nhựa bên phải và bên trái của xe mô tô để xử lý theo quy định.
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 24/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Pưh kết luận:
- Xe mô tô BKS: 81S1 - 093.96 đã qua sử dụng có giá là: 12.950.000đ.
- Xe mô tô BKS: 81H3 - 6760 đã qua sử dụng có giá là: 1.800.000đ. Tổng giá trị tài sản (02 xe mô tô) mà Siu Đet đã trộm cắp là: 14.750.000đ.
* Về vật chứng vụ án: 01 xe mô tô BKS: BKS: 81S1 - 093.96 (nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen), 01 xe mô tô BKS: 81H3 - 6760 (nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ- trắng) và 02 tấm bửng chắn gió bằng nhựa bên phải và bên trái của xe mô tô, 01 biển số xe: 47M - 9774, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Lê Văn Q, anh Lê Ngọc T, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Chư Pưh đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả các tài sản trên cho chủ sở hữu. Sau khi nhận lại tài sản, anh Q và anh T không có yêu cầu gì khác.
* Về trách nhiệm dân sự: Siu Đ hoàn trả lại số tiền 1.500.000 đồng cho anh H, anh H không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.
Tại bản cáo trạng số 41/CTr-VKS ngày 24/11/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Siu Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Siu Đ về tội “Trộm cắp tài sản; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Siu Đ với mức án từ 06 đến 09 tháng tù.
Bản bào chữa của Người bào chữa thống nhất với tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng. Nhưng xét nhân thân bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, cha mất sớm, nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị HĐXX xem xét quyết định.
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Bản bào chữa của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Siu Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng.
Hội đồng xét xử xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với những chứng cứ, kết luận định giá tài sản, tài liệu thu thập được tại hồ sơ vụ án và lời khai người tham gia tố tụng khác. Do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau:
- Vụ thứ nhất: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/8/2017, Siu Đ lén lút chiếm đoạt xe mô tô BKS: 81S1 - 093.96, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ-đen của anh Lê Văn Q đang dựng ở trước sân nhà đem đi cất giấu.
- Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 18/8/2017, Siu Đ lén lút chiếm đoạt xe mô tô BKS: 81H3 – 6760, nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ-trắng của anh Lê Ngọc T dựng ở lô cao su bán cho anh Châu Văn H với giá 1.500.000 đồng, tiêu xài cá nhân.
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 24/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Pưh kết luận: Xe mô tô BKS: 81S1 - 093.96 đã qua sử dụng có giá là: 12.950.000 đồng; Xe mô tô BKS: 81H3 - 6760 đã qua sử dụng có giá là: 1.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Siu Đ trộm cắp là: 14.750.000 đồng
Hành vi nêu trên của bị cáo Siu Đ đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai truy tố là đúng người, đúng tội.
Hội đồng xét xử xét, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật mà còn xâm phạm đến trật tự trị an xã hội ở địa phương. Loại tội này xảy ra nhiều và có chiều hướng gia tăng gây dư luận xấu, bất bình trong nội bộ quần chúng nhân dân, bị mọi người lên án, căm phẩn. Sau khi phạm tội đã bỏ trốn hòng trốn tránh sự trừng trị của pháp luật. Do đó, cần xử phạt tù bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Đối với bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần, nhưng hành vi trộm cắp xe mô tô BKS 81H3-6770 của anh Lê Ngọc T có trị giá 1.800.000 đồng chưa đủ định lượng cấu thành cơ bản về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, nên HĐXX không coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
HĐXX xét thấy, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra vụ án bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đối với Châu Văn H là người đã mua xe mô tô BKS: 81H3 - 6760 do bị cáo trộm cắp. Tuy nhiên, anh H không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý về hình sự là đúng pháp luật.
* Về vật chứng vụ án: Tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, nay không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX miễn xét.
* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra anh Châu Văn H yêu cầu bị cáo Siu Đ hoàn trả lại số tiền 1.500.000 đồng. Hiện tại bị cáo đã trả lại cho anh H 1.500.000 đồng, nay không có yêu cầu gì thêm, nên HĐXX miễn xét.
* Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Siu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Siu Đ 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành án hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 13/9/2017.
2. Về trách nhiệm dân sự: Miễn xét
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo Siu Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm; những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết./.
Bản án 44/2017/HSST ngày 29/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 44/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Pưh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về