Bản án 435/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 435/2019/HSST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường 02, trụ sở Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 420/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 433/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

- Nguyễn Văn D, sinh năm 1991 Nơi cư trú: Thôn Hà Thành, xã Hà Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Lan (đã chết) và bà Đậu Thị Thanh, sinh năm 1965; bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 anh em; có vợ là Nguyễn Thị Trang, sinh năm 1996 và có 01 con sinh năm 2017. Tiền án: không Tiền sự: không Bị bắt, tạm giam ngày 18/5/2019 và chuyển tạm giam theo lệnh bắt bị can để tạm giam số 256 ngày 25/5/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 45 phút ngày 18/5/2019, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô hiệu Wave RS không có biển số đi đến khu vực chợ Long Bình Tân thuộc phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa mua 01 gói ma túy đá với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) của người đàn ông tên Anh (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, D cất giấu số ma túy trên vào túi quần phía trước bên trái D đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi đến khu vực tổ 9, khu phố 1, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa thì bị Công an phường Long Bình Tân kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái D đang mặc có 01 gói nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, D khai là ma túy đá nên Công an phường Long Bình Tân đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật rồi lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Công an thành phố Biên Hòa để điều tra theo thẩm quyền. Quá trình điều tra D đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ:

- 01 (một) gói nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng;

- Số tiền 70.000 đồng (bảy mươi nghìn đồng);

- 01 (một) ống nỏ thủy tinh;

- 01 (một) xe mô tô không biển số, số máy HC12E 2243773, số khung RLHHC 112348Y011989;

- 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vell-com màu đen, số Imeil 865713020962272.

Tại Kết luận giám định số: 452/PC09-GĐMT ngày 23/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4228 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 414/CT-VKS-HS ngày 21/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 01, Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo D từ mười sáu đến mười tám tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định. Hoàn trả các tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Bị cáo Nguyễn Văn D bị bắt quả tang khi có hành vi tàng trữ 0,4228 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích dùng để sử dụng. Hành vi trên đây của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Hiện nay, tệ nạn sử dụng chất ma túy diễn ra hết sức phức tạp, là nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, do đó việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật. Do đó, áp dụng mức hình phạt tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm c khoản 01, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nên được hưởng đây là tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[2]. Về xử lý vật chứng:

- Cần tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định và 01 (một) ống nỏ thủy tinh.

- Số tiền 70.000đ (Bảy mươi ngàn đồng) và 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vell-com màu đen, số Imeil 865713020962272 trả lại cho bị cáo do đây là tài sản của bị cáo và không liên quan đến vụ án.

- 01 (một) xe mô tô không biển số, số máy HC12E 2243773, số khung RLHHC 112348Y011989 do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát Điều tra công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[3]. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo xác định không bị ép cung hay dùng nhục hình, lời khai của bị cáo là chính xác và hoàn toàn tự nguyện. Đối chiếu các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là đúng quy định của pháp luật.

[4]. Đối với đối tượng tên Anh có hành vi bán ma túy cho bị cáo D do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát Điều tra công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 106, 135, 136, 288, 289, 292, 298, 299 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 01, Điều 249; điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51; Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự;

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D (01) một năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/5/2019.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,3579 gam ma túy còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 452/PC09 – GĐMT ngày 23/5/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 (một) ống nỏ thủy tinh.

Hoàn trả bị cáo Nguyễn Văn D số tiền 70.000 đồng (bảy mươi nghìn đồng) và 01 (một) Điện thoại di động hiệu Vell-com màu đen, số Imeil 865713020962272 cho Nguyễn Văn D do không liên quan đến việc phạm tội.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/8/2019 và biên lai thu tiền số 000240 ngày 22/8/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 435/2019/HSST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:435/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về