TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 434/2020/HSST NGÀY 11/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 11 tháng 9 năm 2020; tại: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 418/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 593/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Phan Thị Phương U; Sinh ngày: 18 tháng 8 năm 1992 tại thành phố V, tỉnh NA; Nơi cư trú: Khối V, phường H, thành phố V, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn C, sinh năm: 1964 và bà: Hoàng Thị Thu H, Sinh năm: 1972; Có chồng: Điền Văn T, Sinh năm: 1988; Và có 2 con: lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 08/7/2020 đến ngày 11/7/2020 được trả tự do; Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đậu Văn H1; Sinh năm: 1990; Địa chỉ: Xóm 10, xã NT, huyện N, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Lê Trọng H2; Sinh năm: 1994; Địa chỉ: Xóm 6, xã NT, huyện N, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, Đậu Văn H1 và Lê Trọng H2 đi đến khu vực trước số nhà 09, đường N thuộc Khối 16, phường T, thành phố V, tỉnh NA gặp Phan Thị Phương U đang bán số lô, số đề. Tại đây, Đậu Văn H1 và Lê Trọng H2 hỏi mua số lô, số đề của Phan Thị Phương U thì U đồng ý. Đậu Văn H1 mua số lô 60 với 100 điểm, số lô 06 với 20 điểm (mỗi điểm tương ứng với giá là 22.500 đồng); ba số đề “33, 66, 77” mỗi số đề tương ứng với số tiền 100.000 đồng. Tổng số tiền mà H1 mua số lô, đề của U là 3.000.000 đồng. H1 đưa cho U số tiền 3.000.000 đồng. Sau đó, U ghi các số lô, đề mà H1 đánh vào 01 tờ cáp đề rồi U ký tên xác nhận vào đó, ghi xong U đưa cho H1 01 tờ cáp đề, U giữ lại 01 tờ cáp đề dưới dạng in giấy than để làm căn cứ sau này. Ngay sau đó, Lê Trọng H2 mua số lô 30 với 100 điểm (mỗi điểm tương ứng với giá là 22.500 đồng), ba số đề “30, 06, 09” mỗi số đề tương ứng với số tiền 100.000 đồng, số đề ba càng 330 với số tiền là 50.000 đồng. Tổng số tiền mà H2 mua số lô, số đề của U là 2.600.000 đồng. H2 đưa cho U số tiền 2.600.000 đồng. U tiếp tục ghi các số lô, đề mà H2 đánh vào 01 tờ cáp đề rồi U ký tên xác nhận vào đó, ghi xong U đưa cho H2 01 tờ cáp đề, U giữ lại 01 tờ cáp đề dưới dạng in giấy than để làm căn cứ sau này. H1 và H2 vừa bỏ tờ cáp đề vào túi quần đang mặc thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Vinh phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của Đậu Văn H1 01 cáp đề; thu giữ của Lê Trọng H2 01 cáp đề; thu giữ của Phan Thị Phương U 02 cáp đề in bằng mực giấy than, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen có sim số thuê bao 0979.607603 và số tiền 5.600.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh, Phan Thị Phương U đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng vụ án: Số cáp đề thu giữ của Lê Trọng H2, Đậu Văn H1 và Phan Thị Phương U; Số tiền 5.600.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen có sim số thuê bao 0979.607603, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã trả lại cho Phan Thị Phương U.
Tại Bản cáo trạng số 448/CT-VKS-TPV ngày 18/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Phan Thị Phương U về tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như tại Bản cáo trạng số 448/CT- VKS-TPV ngày 18/8/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015: xử phạt tiền đối với bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
Ngoài ra, còn đề nghị xử lý vật chứng là: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 BLTTHS, Điều 47 BLHS: Tịch thu sung quỹ nhà nước: 5.600.000 đồng.
Và tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các anh Đậu Văn H1 (BL 61 – 66), Lê Trọng H2 (BL 67 – 74); Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.
Do đó, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề tư nhân cho Đậu Văn H1 và Lê Trọng H2 của Phan Thị Phương U với tổng số tiền đánh bạc được xác định là 5.600.000 đồng nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 BLHS 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
[2.2]. Đây là vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương nên cần thiết phải xét xử nghiêm đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, Hội đồng xét thấy: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; bản thân bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số lượng tiền sử dụng vào việc đánh bạc là không lớn nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để xử phạt tiền đối với bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.
[2.3]. Trong vụ án này, đối với Đậu Văn H1 và Lê Trọng H2 đã có hành vi đánh bạc với Phan Thị Phương U nhưng H1 và H2 chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều 321, 322 Bộ luật Hình sự, cũng chưa bị kết án về tội phạm quy định tại Điều 321, 322 Bộ luật Hình sự, hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[2.4]. Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 5.600.000 đồng là tiền mà bị cáo và các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc nên cần sung quỹ nhà nước theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 BLTTHS, Điều 47 Bộ luật Hình sự.
[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Bị cáo Phan Thị Phương U phạm tội “Đánh bạc”.
*. Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử p h ạt Bị cáo Phan Thị Phương U: phạt tiền: 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
*. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước: 5.600.000 đồng (Năm triệu, sáu trăm ngàn đồng).
(Số vật chứng này hiện có tại Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An theo Chứng nhận nộp tiền số 300720 0003 0374 ngày 30/7/2020 của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An).
*. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phan Thị Phương U phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 434/2020/HSST ngày 11/09/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 434/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về