TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 433/2018/HC-PT NGÀY 16/10/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Ngày 16 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 104/2018/TLPT-HC ngày 14 tháng 3 năm 2018 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2018/HC-ST ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1447/2018/QĐ-PT ngày 20 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1926 (vắng mặt). Người đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị T, sinh năm 1971 (có mặt). Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C – Ông Nguyễn Tuấn T (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện G: Ông Võ Văn T – Phó Trưởng phòng tài nguyên và môi trường huyện (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Bùi Thị Thùy T, sinh năm 1979 (có mặt).
- Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1968 (vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Móng: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1963 (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị B: Ông Trần Văn Sỹ là luật sư Văn phòng luật sư Trần Văn Sỹ thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị S và tại phiên tòa người đại diện của người khởi kiện bà Bùi Thị T trình bày như sau:
Bà Nguyễn Thị S có quản lý sử dụng một phần thửa đất số 106, tờ bản đồ số 5, diện tích 126 m2. Thửa đất trên có nguồn gốc do bà S khai hoang và sử dụng từ trước năm 1975 cho đến năm 2008. Năm 2008 bà S bán lại phần đất trên cho cháu ngoại là bà Bùi Thị T, hiện tại phần đất trên có nhà ở của bà Bùi Thị Thùy T (em ruột bà T). Mới đây khi đo đạc lại đất bà S mới biết thửa đất trên hiện do ông Nguyễn Văn M đứng tên.
Nay bà Nguyễn Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng dụng đất thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996 và cấp lại cho bà Nguyễn Thị Sáng phần đất có nhà ở của bà Bùi Thị Thùy Trang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện C – ông Võ Văn T trình bày: Thừa nhận tại thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thực tế có 02 chủ sử dụng là bà Nguyễn Thị S và gia đình ông Nguyễn Văn M, Nguyễn Thị B nhưng Ủy ban nhân dân huyện C cấp trọn thửa 106 cho ông M là chưa đúng đối tượng một phần do cấp đại trà. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S.
Bà Nguyễn Thị B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn M trình bày: Thừa nhận thực tế bà S đã sử dụng một phần thửa 106, có ranh giới rõ ràng, gia đình ông M, bà B không tranh chấp với bà S, không có đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất bà S sử dụng.
Bà Bùi Thị Thùy T - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
Đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Sáng và trình bày của bà Nguyễn Thị T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2018/HC-ST ngày 23/01/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định: Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng dụng đất thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996 để cấp lại cho đúng đối tượng sử dụng.
Về chi phí thẩm định tại chỗ là 1.400.000 đồng bà Bùi Thị Thùy T tự nguyện chịu và đã nộp xong.
Về án phí: Buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009629 ngày 17/7/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Án xử sơ thẩm. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Ngày 01/02/2018, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị B kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2018/HC-ST ngày 23/01/2018 theo hướng bác yêu cầu khởi kiện, công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông M, bà B. Lý do: Quyết định tuyên xử của Tòa án nhân dân tỉnh Long An làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của gia đình ông bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bà Nguyễn Thị B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị B trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông M, bà B.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng quy định về tố tụng.
Án sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án hành chính đúng trình tự, thủ tục.
Về nội dung: Giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ. Bà Nguyễn Thị B kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ nào để chứng minh toàn bộ diện tích đất tại thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thuộc quyền sở hữu của Bà và ông M, ngoài ra bà cũng thừa nhận bà S đã sử dụng một phần thửa 106. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến tranh luận của các bên, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị B kháng cáo trong thời hạn luật định nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về nội dung: Xét tính hợp pháp của Giấy chứng nhận quyền sử dụng dụng đất thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996.
Xét về nguồn gốc diện tích đất tại thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Hội đồng xét xử thấy rằng:
- Bà Nguyễn Thị S thực tế có quản lý sử dụng một phần thửa đất số 106, tờ bản đồ số 5. Phần diện tích đất trên có nguồn gốc do bà Sáng khai hoang và sử dụng từ trước năm 1975 cho đến năm 2008 và hiện nay phần đất trên có nhà ở của bà Bùi Thị Thùy T.
- Trong tổng số diện tích đất tại thửa số 106, tờ bản đồ số 5 diện tích 2863m2 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An đã được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996, thì có phần diện tích đất của bà Nguyễn Thị S sử dụng và cho bà Bùi Thị Thùy T cất nhà. Bà Nguyễn Thị B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn M cũng thừa nhận thực tế bà S đã sử dụng một phần thửa 106, có ranh giới rõ ràng, gia đình ông M, bà B không tranh chấp với bà Sáng.
- Ông Võ Văn T là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện C thừa nhận việc cấp toàn bộ diện tích đất tại thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An cho ông Nguyễn Văn M là do cấp đại trà, không kiểm tra thực tế diện tích nên có cấp luôn phần diện tích đất của bà S sử dụng cho ông M là cấp không đúng đối tượng.
Từ những nhận định trên cho thấy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng dụng đất thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996 là chưa đúng đối tượng sử dụng phần diện tích 284m2 của bà Nguyễn Thị S là không đúng quy định của pháp luật về đất đai. Do vậy, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn M để cấp lại cho đúng đối tượng sử dụng là có cơ sở chấp nhận.
[3] Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy Bản án sơ thẩm đã nhận định và quyết định như nêu trên là có cơ sở theo quy định của pháp luật. Bà Nguyễn Thị B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu của mình nên không được chấp nhận. Bởi lẽ đó nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp cao.
[4] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị B phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S.
Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng dụng đất thửa số 106, tờ bản đồ số 5 tọa lạc tại xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M ngày 30/12/1996 để cấp lại cho đúng đối tượng sử dụng.
Về chi phí thẩm định tại chỗ là 1.400.000 đồng bà Bùi Thị Thùy T tự nguyện chịu và đã nộp xong.
Về án phí hành chính sơ thẩm: Buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị S 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009629 ngày 17/7/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng; được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí bà B đã nộp theo biên lai thu số 0001141 ngày 01/02/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 433/2018/HC-PT ngày 16/10/2018 về khiếu kiện quyết định hành chính
Số hiệu: | 433/2018/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 16/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về