Bản án 43/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2021/TLST- HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST – HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/HSST – QĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. TVUC, sinh năm 1997 tại Trà Vinh; thường trú: Ấp AC, xã TB, huyện CL, tỉnh TV; trú tại: khu phố ÔĐ, phường TH, thị xã TU, tỉnh BD; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông TVT (đã chết) và bà NTB, sinh năm 1953; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 17/8/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TVĐ, sinh năm 1991 tại Cần Thơ; thường trú: Tổ 5, ấp Phước Thạnh, xã Mỹ Phước, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn) 6/12; con ông TVD, sinh năm 1963 và bà TTT, sinh năm 1965, vợ tên PTHL, sinh năm 1990, có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 41/2008/HSST ngày 25/9/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, thời gian thử thách là một năm; Bản án số 30/2012/HSST ngày 02/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 29/2014/HSST ngày 06/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xử phạt 18 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; Ngày 28/02/2018 bị Công an huyện Giồng Riềng ra quyết định xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép; bị bắt tạm giam ngày 17/8/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông NXK, sinh năm 1965; thường trú:

90/5X ấp MH 1, xã TC, huyện HM, Thành phố HCM, vắng mặt.

- Người làm chứng: TVN, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 17/8/2020 Đội cảnh sát điều tra về ma túy – kinh tế Công an thành phố Thuận An tiến hành tuần tra theo kế hoạch. Khi tổ tuần tra đến trước số nhà 21/19 khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện TVUC đang điều khiển xe mô tô biển số 59Y1-890.44 chở TVĐ ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe, C và Đ khai nhận cả hai là người nghiện ma túy và trước đó mới sử dụng chung ma túy đá. Tổ tuần tra phát hiện dưới lớp bao yên xe ngay vị trí C ngồi có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng được quấn băng keo đen (nghi vấn là ma túy tổng hợp) nên lập biên bản bắt quả tang.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận khoảng 22 giờ 00 phút ngày 17/8/2020 cả hai bị cáo cùng rủ nhau đi mua ma túy để sử dụng. C điều khiển xe mô tô biển số 59Y1- 890.44 chở Đ ngồi phía sau đến khu vực phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên mua 600.000 đồng ma túy của đối tượng tên H rồi đưa cho Đ cầm trên tay, Đ cất giấu gói ma túy dưới lớp vỏ bọc yên xe và đi tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến trước số nhà 21/19 khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng được quấn băng keo đen, 01 xe mô tô biển số 59Y1-890.44.

Kết luận giám định số 527/MT-PC09 ngày 24/8/2020 của phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy có khối lượng/trọng lượng 0,2483gam, loại Methamphatamine.

Cáo trạng số 25/CT-VKS-TA ngày 11 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo TVUC, TVĐ về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo TVUC mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo TVĐ mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng như sau:

Đối với mẫu tinh thể có trọng lượng sau giám định 0,2101 gam loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô 02 bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại NUOVO-5P11, xy lanh 132,6cm3, mang biển kiểm soát 59Y1-890.44; số khung RLN5P1109Y110301, số máy 5P11-110305 do ông NXK đứng tên chủ sở hữu, tuy nhiên hiện nay ông K đã bán nhà đi nơi khác, không rõ làm gì ở đâu nên đề nghị tiếp tục giao xe mô tô trên cho Công an thành phố Thuận An xác minh xử lý theo quy định.

Đối với đối tượng tên H ở khu vực phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, là bán ma túy cho Cảnh, cơ quan điều tra đã thông tin cho Công an thị xã Tân Uyên để tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau.

Tại phiên tòa các bị cáo TVUC và TVĐ đã khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông NXK không trình bày trong quá trình điều tra.

Người làm chứng ông Trần Văn Nhân đã trình bày trong quá trình điều tra và không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo TVUC, TVĐ đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 17/8/2020, tại trước số nhà 21/19 khu phố Bình Phú, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương TVUC, TVĐ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có trọng lượng 0,2483 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo các bị cáo TVUC, TVĐ về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần xử phạt các bị cáo với mức án phù hợp, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nên vai trò của các bị cáo là ngang nhau.

Đối với bị cáo TVĐ, tại bản án số 30/2012/HSST ngày 02/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ đến nay bị cáo chưa đóng án phí. Tuy nhiên, bản án số 29/2014/HSST ngày 06/6/2014 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xác định bị cáo tái phạm trong bản án này và bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án và đủ điều kiện xóa án tích nên lần phạm tội này Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Bị cáo TVĐ có nhân thân xấu.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Ngoài ra, bị cáo TVUT có ông nội tên TVP các ông TVP, TVP, TVĐ là liệt sỹ nên thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tuy nhiên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với bị cáo Trần Văn Được là không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

Mẫu tinh thể có trọng lượng sau giám định 0,2101 gam loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô 02 bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại NUOVO-5P11, xy lanh 132,6cm3, mang biển kiểm soát 59Y1-890.44; số khung RLN5P1109Y110301, số máy 5P11-110305 do ông NXK đứng tên chủ sở hữu, tuy nhiên hiện nay ông K đã bán nhà đi nơi khác, không rõ làm gì ở đâu nên đề nghị tiếp tục giao xe mô tô trên cho Công an thành phố Thuận An xác minh xử lý theo quy định.

Đối với đối tượng tên H ở khu vực phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, là bán ma túy cho Cảnh, cơ quan điều tra đã thông tin cho Công an thị xã Tân Uyên để tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau.

[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo TVUC.

Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo TVĐ.

Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo TVUC, TVĐ phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy .

+ Xử phạt bị cáo TVUC 01 (một ) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020.

+ Xử phạt bị cáo TVĐ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư bên trong chứa Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,2101 gam loại được niêm phong ghi vụ số 527/PC09.

Giao xe mô tô 02 bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại NUOVO-5P11, xy lanh 132,6cm3, mang biển kiểm soát 59Y1-890.44; số khung RLN5P1109Y110301, số máy 5P11-110305 cho Công an thành phố Thuận An xác minh xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2020).

3. Về án phí: Bị cáo TVUC, TVĐ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về