Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị M và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ M VÀ ANH T

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 09/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1989

- Bị đơn: Anh Lê Bá T, sinh năm 1988

Cùng cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt chị M, vắng mặt anh T)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Bá T tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đên hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện P vào ngày 14/5/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh T. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ, con, lại nghiện ma túy. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 11/2019, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Việt A sinh ngày 04/5/2012 và Lê Quỳnh A sinh ngày 02/8/2014. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Quỳnh A, chị để anh Lê Bá T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Việt A, chị và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lê Bá T vắng mặt tại các buổi tố tụng của Tòa án nên không có quan điểm trình bày.

Kết quả xác minh với ông Lê Bá C sinh năm 1961 (bố đẻ anh Lê Bá T) và cơ sở Thôn Đ, xã L thấy: Chị Nguyễn Thị M và anh Lê Bá T là vợ chồng. Thời gian mâu thuẫn gia đình và cơ sở thôn không biết, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp nhau. Từ tháng 11/2019, chị M không chung sống cùng anh T nữa mà đi làm ăn xa nhưng thỉnh thoảng có về. Nay chị M có đơn xin ly hôn anh T, gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ, nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị M và anh T có 02 con chung là là Lê Việt Asinh ngày 04/5/2012 và Lê Quỳnh A sinh ngày 02/8/2014, hiện đang ở với bố mẹ anh T, bố mẹ anh T chăm sóc các cháu rất chu đáo. Nếu Tòa án giải quyết cho chị M và anh T ly hôn về con chung đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trường hợp Tòa án giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng nếu anh T vắng nhà thì bố mẹ anh T sẽ trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng con thay anh T. Về tài sản chung gia đình và cơ sở thôn không nắm rõ.

Anh T có bị nghiện ma túy, năm 2018 anh T bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng từ sau đi cai nghiện về anh T không còn biểu hiện nghiện ma túy nữa, có tu chí làm ăn. Cả chị M và anh T đều đi làm ăn xa nhưng không biết làm ăn ở đâu nhưng thường xuyên về gia đình để thăm con và gửi tiền để bố mẹ anh T chăm các con của anh chị.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật của bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Lê Bá T; Về con chung: giao con chung Lê Quỳnh Asinh ngày 02/8/2014 cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Lê Việt A sinh ngày 04/5/2012 cho anh Lê Bá T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền thăm nom con chung; Về tài sản: không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị M phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị M khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Lê Bá T. Do anh T là bị đơn cư trú tại Thôn Đ, xã L, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Lê Bá T xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã L, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 18 ngày 14/5/2013 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tính vợ chồng không hợp nhau, anh T không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ, con lại nghiện ma túy. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 11/2019 vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị M xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, chị xin ly hôn anh T. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng anh T vắng mặt, không có thiện chí giải quyết vụ án, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị M và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị M được ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M và anh Lê Bá T có 02 con chung là Lê Việt A sinh ngày 04/5/2012 và Lê Quỳnh Asinh ngày 02/8/2014. Ly hôn, chị M nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Quỳnh Anh, chị để anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Việt Anh, chị và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án anh T vắng mặt nên không có quan điểm trình bày. Xét nguyện vọng nuôi con của chị M và quá trình xác minh tại gia đình, địa phương thấy các con chung được anh chị và gia đình chăm sóc chu đáo, chị M và anh T đều có điều kiện nuôi con ngang nhau. Cháu Lê Việt Agiới tính nam có nguyện vọng ở với bố, cháu Lê Quỳnh Agiới tính nữ, độ tuổi cần được sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của mẹ. Để không ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt của con chung nên cần giao con chung Lê Việt Acho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung cho Lê Quỳnh Acho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chị M và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau là đáp ứng với nguyện vọng của đương sự, con chung và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Lê Bá T không có ý kiến trình bày nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị M và anh Lê Bá T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Lê Bá T.

2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Lê Việt Asinh ngày 04/5/2012 cho anh Lê Bá T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Lê Quỳnh Asinh ngày 02/8/2014 cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xét.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị M đã nộp theo biên lai thu số 0004702 ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/6/2021). Anh Lê Bá T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị M và anh T

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về