Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 20/05/2021 về ly hôn giữa chị T và anh H

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH H

Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, nghĩa vụ chung. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXX-ST ngày 13 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bé T, sinh năm 1976; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

Bị đơn: Anh Đặng Văn H, sinh năm 1973; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm chị Nguyễn Thị Bé T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào khoảng năm 1998, do quen biết, tìm hiểu, chị Nguyễn Thị Bé T và anh Đặng Văn H tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng hạnh phúc nhưng sau này phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không lo làm ăn, quan tâm gì đến vợ con, thường xuyên ăn nhậu về kiếm chuyện đánh đập nhiều lần. Từ đó, tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được nên chị T yêu cầu xin được ly hôn với anh H.

Về con chung: Có 02 con chung: cháu Đặng Văn K, sinh năm 1999 (đã trưởng thành) và cháu Đặng Văn V, sinh ngày 18/3/2013. Hiện cháu V đang sống chung với anh H. Chị T đồng ý giao cháu V cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nghĩa vụ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn anh Đặng Văn H vắng mặt không rõ lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bé T và anh Đặng Văn H.

Về nuôi con chung: Giao cháu V cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

Về chia tài sản chung; Nghĩa vụ chung: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

Về án phí Hôn nhân và gia đình: Chị T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thẩm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện và yêu cầu của nguyên đơn thì tranh chấp giữa các bên được xác định là tranh chấp về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, nghĩa vụ chung. Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về việc tham gia tố tụng: Bị đơn anh Đặng Văn H vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của chị T và anh H được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do đó, có cơ sở xác định hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp. Chị T xác định thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng hạnh phúc nhưng thời gian sau này thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do anh H không lo làm ăn, quan tâm gì đến vợ con, thường xuyên ăn nhậu về kiếm chuyện đánh đập nhiều lần nên vợ chồng sống ly thân. Thời gian sống ly thân, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Chị T nộp đơn khởi kiện xin ly hôn, Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng tiến hành hòa giải nhiều lần để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh H đều vắng mặt không rõ lý do. Tại phiên tòa, chị T cương quyết xin ly hôn vì xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với anh H, anh H tiếp tục vắng mặt không rõ lý do. Ngoài ra, tại biên bản xác minh ngày 05/02/2021 xác định: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẩn là do anh H không lo làm ăn, quan tâm gì đến vợ con, thường xuyên ăn nhậu. Từ đó, vợ chồng bất hòa và đã sống ly thân khoảng 04 năm nay. Điều đó chứng tỏ, mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chị T xin ly hôn với anh H là có cơ sở.

[2.2] Về nuôi con chung: Có 02 con chung: Cháu Đặng Văn K, sinh năm 1999 (đã trưởng thành) và cháu Đặng Văn V, sinh ngày 18/3/2013. Chị T đồng ý giao cháu V cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Đối với cháu K đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Xét thấy: Từ lúc vợ chồng sống ly thân, cháu V đang chung sống với anh H và có nguyện vọng được tiếp tục chung sống với anh H. Chị T xác định, từ lúc vợ chồng sống ly thân, anh H đã nuôi cháu V đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần. Tại phiên tòa, chị T đồng ý giao cháu V cho anh H tiếp tục nuôi đưỡng đến tuổi trưởng thành. Để đảm bảo phát triển bình thường về mặt tâm lý cũng như tiện bề chăm sóc cho cháu V được thuận lợi nên cần thiết ổn định cho cháu V chung sống như ban đầu. Căn cứ vào khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu V cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành. Đối với cháu K đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh H đều vắng mặt và không có yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi cháu V. Do đó, cần tách nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có tranh chấp.

[2.2] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị T xác định không có, anh H đều vắng mặt không rõ lý do. Tòa án không tiến hành ghi nhận được ý kiến của anh H về tài sản chung, nợ chung. Do đó, cần tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

[3] Án phí: Nguyên đơn chị T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[4] Từ những căn cứ trên, việc Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227; Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bé T và anh Đặng Văn H.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Đặng Văn V, sinh ngày 18/3/2013 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Đối với cháu Đặng Văn K đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

Dành quyền thăm nom con chung cho chị T, không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, chị T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Nếu có thì anh H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của chị T.

Vì lợi ích mọi mặt của con khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

3. Về chia tài sản chung nghĩa vụ chung: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bé T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 013581 ngày 03 tháng 02 năm 2021 thành tiền án phí. Công nhận chị T đã nộp xong.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

6. Án tuyên công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 20/05/2021 về ly hôn giữa chị T và anh H

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về