Bản án 43/2021/DS-ST ngày 24/02/2021 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 43/2021/DS-ST NGÀY 24/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG 

Ngày 24 tháng 02 năm 2021 tại Phòng xử án Tòa án Nhân dân Quận 7, Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số  379/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-  DS  ngày  06  tháng  01  năm  2021  và  Quyết  định  hoãn  phiên  tòa  số  08/2021/QĐHPT-DS ngày 27 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP T; trụ sở: Số 266-268 đường N, phường V, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Tổng giám đốc.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Bích Thanh T, sinh năm 1980; Là người đại diện theo ủy quyền; (Giấy ủy quyền số 1192/2020/UQ- TTT ngày 10/8/2020); (vắng mặt).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1960; địa chỉ: Số 257/6 đường N,  phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 10/8/2020; các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện như sau:

Ngày 16/4/2008, Ngân hàng TMCP T có ký với bà Nguyễn Thị Mỹ D hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của bà D, Ngân hàng TMCP T đã cấp thẻ tín dụng số thẻ 472074 – 2216, hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, từ tháng 4/2008 đến tháng 6/2009 bà D đã thực hiện giao dịch với tổng số tiền là 19.319.556 đồng; đã thanh toán được 23.571.116 đồng, gồm: Lãi trong hạn 4.315.690 đồng, phí phát sinh là 3.200.000 đồng, tiền gốc 16.055.426 đồng, rồi ngưng không thanh toán nữa, mặc dù ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng bà D vẫn không có thiện chí trả nợ.

Theo như thỏa thuận và cam kết trong hợp đồng thì thời hạn thanh toán là là sau ngày chốt giao dịch ngày 31 hàng tháng + 10 ngày, bà D có trách nhiệm phải thanh toán toàn bộ dư nợ tối thiểu cho ngân hàng trước hoặc vào ngày đến hạn. Bà D không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán trong suốt thời gian dài đã vi phạm điều khoản của hợp đồng đã ký tại Mục 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng. Căn cứ Mục 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng TMCP T đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn từ ngày  01/11/2011.

Theo điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng: Lãi suất và các mức phí giữa các bên không có thỏa thuận cụ thể mà đơn vị phát hành thẻ có quyền sửa đổi mức lãi suất trong từng thời kỳ theo quyết định của mình mà không cần thông báo trước cho chủ thẻ và phí sẽ được tính toán theo một tỷ lệ  % được xác định trước hoặc với một mức phí cố định tối thiểu hoặc bao gồm cả  hai. Lãi quá hạn là: 150% x 2,15%/tháng = 3,225%/tháng.

Lãi suất được tính từ ngày giao dịch cho đến ngày việc thanh toán được thực hiện đầy đủ. Phương thức thanh toán là tất cả các giao dịch và phí phát sinh phải được chủ thẻ thanh toán cho đơn vị phát hành thẻ vào hoặc trước ngày đến hạn được ghi trên thông báo (Mục 18 Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng), việc thanh toán đối với các khoản nợ trên tài khoản được thực hiện theo thứ tự: Các khoản phí và/hoặc lãi của kỳ trước; giao dịch rút tiền mặt của kỳ trước; giao dịch mua hàng của kỳ trước; các khoản phí và/hoặc lãi trong kỳ; giao dịch rút tiền mặt trong kỳ; giao dịch mua hàng trong kỳ (Mục 20 Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng). Tính đến ngày 24/02/2021 bà D còn nợ Ngân hàng TMCP T là 15.208.766 (Mười lăm triệu hai trăm lẻ tám nghìn bảy trăm sáu mươi sáu) đồng, gồm nợ gốc là  3.264.130 (Ba triệu hai trăm sáu mươi bốn nghìn một trăm ba mươi) đồng, lãi quá hạn 11.944.636 (Mười một triệu chín trăm bốn mươi bốn nghìn sáu trăm ba  mươi sáu) đồng. Đại diện Ngân hàng TMCP T yêu cầu bà Nguyễn Thị Mỹ D phải trả ngay một lần số nợ trên khi bản án có hiệu lực pháp luật và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận của hợp đồng quy định tại Mục 22, 23 Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng kể từ ngày 25/02/2021 cho đến khi trả hết nợ.

Bị đơn vắng mặt toàn bộ trong quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại  phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa; nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đúng đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Nguyễn Thị Mỹ D trả nợ gốc lãi tính đến ngày 24/02/2021 tổng số tiền là 15.208.766 đồng, gồm nợ gốc là 3.264.130 đồng, lãi quá hạn 11.944.636 đồng và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận của hợp đồng tính từ ngày 25/02/2021 cho đến khi trả hết nợ.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí do yêu cầu của nguyên đơn được chấp   nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại   phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[2] Ngân hàng TMCP T khởi kiện bà Nguyễn Thị Mỹ D yêu cầu trả nợ hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng và bị đơn có địa chỉ tại Quận 7 nên đây là đây tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều  35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Ngân hàng TMCP T ký với bà Nguyễn Thị Mỹ D Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Ngân hàng căn cứ thu nhập của bà D cấp cho bà D thẻ tín dụng số thẻ 472074 – 2216, hạn mức sử dụng là 10.000.000 (Mười triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Quá trình sử dụng thẻ tín dụng, bà D vi phạm nghĩa vụ  trả nợ nên ngân hàng khởi kiện. Cho nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng”.

[4] Xét Giấy ủy quyền số 1192/2020/UQ-TTT ngày 10/8/2020 của Ngân hàng uỷ quyền cho bà Nguyễn Bích Thanh T đại diện tham gia tố tụng tại Toà án và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là hợp lệ nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều  228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/4/2008 ghi thông tin bà Nguyễn Thị Mỹ D có địa chỉ tại: Số 257/6 đường N, phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tại Phiếu yêu cầu xác minh số  379/2020/TAQ7 ngày 26/6/2020 của Tòa án Nhân dân Quận 7, thì bà Nguyễn  Thị Mỹ D có đăng ký tạm trú tại địa chỉ số 257/6 đường N, phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006, nhưng tháng 8/2019 đến nay bà D không còn cư trú tại địa chỉ trên; ngoài ra không có cơ sở để xác định bị đơn hiện đang cư trú tại địa chỉ nào khác. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn tại địa chỉ trên; bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên toà đến lần thứ hai, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều  227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[6] Về yêu cầu của đương sự:

[7] Xét tiền nợ gốc: Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/4/2008, Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, Bảng chi tiết giao dịch của khách hàng Nguyễn Thị Mỹ D, Tóm tắt sao kê, có cơ sở xác định Ngân hàng TMCP T cấp cho bà D một thẻ tín dụng hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng, bà D đã thực hiện giao dịch số tiền là 19.319.556 đồng, đã thanh toán được 23.571.116 đồng, gồm: Lãi trong hạn 4.315.690 đồng, phí phát sinh là 3.200.000 đồng, tiền gốc 16.055.426 đồng. Bị đơn còn nợ tính đến ngày 24/02/2021 là 15.208.766 đồng, gồm nợ gốc là 3.264.130 đồng, lãi quá hạn 11.944.636 đồng. Nguyên đơn đã ra thông báo yêu cầu bà D thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng bà D không thực hiện. Do bà D đã vi phạm các điều khoản hợp đồng mà hai bên ký kết nên nguyên chấm dứt hợp đồng không cho bà D tiếp tục sử dụng thẻ kể từ ngày 01/11/2011 là đúng quy định của pháp luật. Nay nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán nợ phát sinh từ Giấy đề nghị  cấp  thẻ  tín  dụng  kiêm hợp  đồng  do nguyên  đơn  và bị  đơn  ký  ngày  16/4/2008 tổng số tiền là 15.208.766 (Mười lăm triệu hai trăm lẻ tám nghìn bảy trăm sáu mươi sáu) đồng, gồm nợ gốc là 3.264.130 (Ba triệu hai trăm sáu mươi  bốn nghìn một trăm ba mươi) đồng, lãi quá hạn 11.944.636 (Mười một triệu chín trăm bốn mươi bốn nghìn sáu trăm ba mươi sáu) đồng, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về lãi quá hạn: Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng được thỏa thuận mức lãi suất trong hạn, quá hạn trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều  91, Điều 95, điểm d Khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng. Mức lãi suất quá hạn bằng 150% lãi trong hạn, được tính trên nợ gốc quá hạn từ ngày  01/11/2011. Theo Thông báo V/v thay đổi lãi suất áp dụng cho thẻ tín dụng do  Sacombank  phát  hành  số  113/TB-TTT  ngày  04/7/2011  lãi  trong  hạn  là  2,15%/tháng, nên lãi quá hạn: 150% x 2,15%/tháng = 3,225%/tháng là đúng theo thỏa thuận của hai bên, phù hợp đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí do yêu cầu nguyên đơn được    chấp   nhận    theo   quy   định    Khoản   4    Điều    26    Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1  Điều 39, Điều 91, Điều 147, Khoản 1 và điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1  Điều 228 và Khoản 1 Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 471, Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005;

Căn cứ Điều 91, Điều 95, điểm d Khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014; Căn  cứ  Luật phí, lệ phí  và  Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về quy định về mức thu,  miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP  T.

Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ D phải trả cho Ngân hàng TMCP T toàn bộ nợ  là 15.208.766 (Mười lăm triệu hai trăm lẻ tám nghìn bảy trăm sáu mươi sáu) đồng, gồm nợ gốc là 3.264.130 (Ba triệu hai trăm sáu mươi bốn nghìn một trăm ba mươi) đồng, lãi quá hạn là 11.944.636 (Mười một triệu chín trăm bốn mươi bốn nghìn sáu trăm ba mươi sáu) đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 25/02/2021, bà Nguyễn Thị Mỹ D tiếp tục trả tiền lãi, phí phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 16/4/2008 và Điều  khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho đến khi thanh toán  hết nợ.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Mỹ D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 760.438 (Bảy trăm sáu mươi nghìn bốn trăm ba mươi tám) đồng.

Ngân hàng TMCP T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại số tiền án tạm ứng phí dân sự sơ thẩm cho Ngân hàng TMCP T là 359.000 (Ba trăm năm mươi chín nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2019/0041698 ngày  22/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền kháng cáo:

Các bên đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/DS-ST ngày 24/02/2021 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng 

Số hiệu:43/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về