Bản án 43/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/ HSST ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Thanh B (Tên gọi khác: không), sinh ngày 08/5/1993 Nơi cư trú: thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Bùi Thanh B, sinh năm 1962; con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1965; Vợ : Bùi Thị Hồng Ph, sinh năm 2001, con: 01 con sinh năm 2016; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2020 cho đến 30/5/2020, bi cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Anh Nguyễn Đức P, sinh năm 1989, có đơn xin xét xử vắng mặt. Nơi công tác: Ủy ban nhân dân xã LS, huyện LS, tỉnh HB. HKTT: thôn LT, xã CT, huyện LS, tỉnh HB.

* Người làm chứng:

1/ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 , có đơn xin xét xử vắng mặt. Nơi công tác: Ủy ban nhân dân xã LS, huyện LS, tỉnh HB.

HKTT: QT, xã CD, huyện LS, tỉnh HB.

2/ Anh Bùi Tiến V, sinh năm 1978, có đơn xin xét xử vắng mặt.

HKTT: Thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB.

3/ Anh Bùi Ngọc Đ, sinh năm 1971, vắng mặt.

HKTT: Thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB.

4/ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979, vắng mặt.

HKTT: Thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ 15phút ngày 20/5/2020 Công an xã LS nhận được tin báo của ông Bùi Ngọc Đ, sinh năm 1971 ở thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB về việc: Vào khoảng 18 giờ ngày 20/5/2020 Bùi Thanh B, sinh năm 1993, có hộ khẩu như trên sau khi uống rượu say đã đến nhà ông Đ chửi bới ông Đ và vợ là bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1979 ( bố mẹ vợ B ) và cháu Bùi Thị Lan A, sinh năm 2016 ( con gái của B ).

Sau khi tiếp nhận tin báo trưởng công an xã Liên Sơn đã cử 03 đồng chí cán bô gồm: thượng úy Nguyễn Đức P, sinh năm 1989, HKTT: LT, xã CT, huyện LS, tỉnh HB là công an viên làm tổ trưởng; thiếu úy Nguyễn Văn T,sinh năm 1995, HKTT: QT, xã CD, huyện LS, tỉnh HB làm tổ viên; anh Bùi Tiến V, sinh năm 1978, HKTT:

Tn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB là công an viên thôn G làm tổ viên đến nhà ông Đ để giải quyết vụ việc. Tổ công tác đươc phân công chuẩn bị công cụ hỗ trợ, mặc đúng trang phục điều lệnh Công an nhân dân và sử dụng phương tiện cá nhân để đi đến nhà ông Bùi Ngọc Đ. Khi tổ công tác đến làm việc thì thấy Bùi Thanh B đang có hành vi chửi bới đe dọa bà H. Tổ công tác Công an xã LS đã tuyên truyền giải thích, yêu cầu Bùi Thanh B không gây mất trật tự và chấm dứt hành vi gây rối. Lúc này Biên nảy sinh ý định chống lại tổ công tác đến làm nhiệm vụ nên B không chấp hành mà lên xe máy bỏ đi để lấy hung khí chống lại tổ công tác. B đi xe máy đến đầu đường liên thôn G cách nhà ông Đ 38m10 thì dừng xe lại, Biên mở cốp xe máy lấy 01 con dao, dạng dao bầu có mũi nhọn, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm( dao Biên giấu sẵn trong cốp xe từ trước để đe dọa bố mẹ vợ). B cầm dao và dấu sau lưng, rồi đi bộ quay lại nhà ông Đ, đi được một đoạn thì dao rơi xuống đường, B nhặt dao lên rồi chạy thẳng đến chỗ tổ Công tác công an xã LS đang đứng trước cửa nhà ông Đ. B cầm dao đuổi đồng chí Nguyễn Đức P và chém đồng chí P 01 nhát nhưng đồng chí P tránh được, không trúng, Biên tiếp tục chém đồng chí P nhát thứ hai thì trúng vào khuỷu tay trái, sau đó B tiếp tục cầm dao đuổi theo đồng chí P. Lúc này đồng chí P đã nổ súng bắn chỉ thiên, B mới dừng lại. Sau đó B lên xe máy bỏ đi. Đến 19 giờ cùng ngày Bùi Thanh B đến Công an xã LS đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ti bản giám định kết luận pháp y về thương tích số 99/TgT ngày 25/5/2020 của Trung tâm giám đinh pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: vết xây xước da khuỷu tay trái đã đóng vảy. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%.

Tch nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Đức P không yêu cầu bị cáo Biên bồi thường về phần trách nhiệm dân sự. Do thương tích 01% không ảnh hưởng đến sức khỏe nên anh Nguyễn Đức P không yêu cầu khởi tố vụ án cố ý gây thương tích đối với Bùi Thanh B.

Vt chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn thu giữ:

- 01 (một con dao dạng dao bầu, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm. Đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện LS, tỉnh HB theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2020 án).

- 02 ( hai) đĩa CD ghi lời khai của bị cáo Bùi Thành B ( kèm theo hồ sơ vụ Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thanh B đã khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 37/CT-VKSLS ngày 17/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện LS, tỉnh HB đã truy tố bị cáo Bùi Thanh B về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thanh B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 330, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 38 BLHS xử phạt: Bùi Thanh B từ 9 - 12 tháng tù. Được trừ đi 09 ngày tạm giữ ( từ ngày 21/5/2020 đến ngày 30/5/2020) Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Đức P không yêu cầu bị cáo Bùi Thanh Biên phải bồi thường nên không đề cập.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu huỷ: 01 (một) con dao dạng dao bầu, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm. Đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện LS, tỉnh HB theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2020 - 02 ( hai) đĩa CD ghi lời khai của bị cáo Bùi Thanh B ( kèm theo hồ sơ vụ án).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Ti phiên tòa bị cáo Bùi Thanh B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như quyết định truy tố, bị cáo đồng ý với tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,xử lý vật chứng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được hưởng mức án 09 tháng tù.

Ý kiến của người bị hại: tại Cơ quan điều tra người bị hại:Về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự: không đề nghị bị cáo bồi thường nên không xem xét.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tội phạm xảy ra tại thôn Ghên, xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm, theo quy định tại Điều 268, 269 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tội danh, điều luật: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi mà mình đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với kết luận giám định pháp y, phù hợp với lời khai của bị hại và những người làm chứng, vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận:

Khong 18 giờ 30 ngày 20/5/2020 Bùi Thanh B, sinh năm 1993, ở thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB đến nhà ông Bùi Ngọc Đ, sinh năm 1971, trú tại thôn G, xã LS, huyện LS, tỉnh HB, ( bố vợ B ) chửi bới đe dọa vợ ông là bà Nguyễn Thị H ( mẹ vợ B), sinh năm 1979 và cháu Bùi Thị Lan Anh ( con gái B), sinh năm 2016. Theo đơn trình báo của ông Đ, tổ công tác Công an xã LS đã cử 03 đồng chí gồm: thượng úy Nguyễn Đức P là công an viên ( tổ trưởng); thiếu úy Nguyễn Văn T là công an viên ( tổ viên); đồng chí Bùi Tiến V là công an viên thôn G ( tổ viên) đến nhà ông Đại để giải quyết vụ việc. Quá trình làm việc tổ công tác đã tuyên truyền, thuyết phục yêu cầu B hợp tác không gây rối để giữ trật tự an ninh khu xóm và mời về trụ sở Công an xã để làm việc. Tuy nhiên B không chấp hành mà dùng 01 con dao dạng dao bầu, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm nhọn lấy ra từ cốp xe của B chém gây thương tích cho anh Nguyễn Đức P.

Hậu quả anh P bị tổn hại 01% ( một phần trăm) sức khỏe.

Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Thanh B, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để cản trở người thi hành công vụ đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện LS, tỉnh HB truy tố bị cáo theo khoản 1 điều 330 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Bùi Thanh B là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc chống người thi hành công vụ là vi phạm pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trât tự quản lý hành chính của Cơ quan quản lý Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương.Vì vậy cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Bị cáo Bùi Thanh B dùng dao gây thương tích 01% cho anh Nguyễn Đức P, anh P có đơn đề nghị không khởi tố vụ án đối với hành vi này của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt; tiền án, tiền sự: không.

- Về tình tiết tăng nặng: không - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đầu thú; bố bị cáo là ông Bùi Thanh B được tặng huy chương chiến sĩ vẻ vang. đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.

Xét hành vi “ Chống người thi hành công vụ” của bị cáo Bùi Thanh B đã ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết đinh áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội cũng như để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Đức P không yêu cầu bị cáo bồi thường nên HDXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) con dao dạng dao bầu, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

Đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2020 - 02 ( hai) đãi CD ghi lời khai của bị cáo Bùi Thành Biên ( kèm theo hồ sơ vụ án).

[6] Vế án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 330, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1.Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thanh B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt: Bùi Thanh B 09 ( Chín) tháng tù, được trừ 09 ngày tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án hoặc tự nguyện thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dạng dao bầu, chiều dài 30cm, cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại, chiều dài lưỡi dao 18,5cm không còn giá trị sử dụng (Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Thanh B phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về