TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Lê Văn S, sinh năm 1989; sinh trú quán: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc; Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Trịnh Thị H; có vợ là Trần Thị Th (đã ly hôn) và có 02 con; tiền sự: Không, tiền án: 01. Bản án số: 46/2018/HS-ST ngày 07/9/2018 Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo xử phạt 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngày 26/12/2019 chấp hành xong hình phạt tù; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2020, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 22/6/2020, Lê Văn S ra đường tỉnh lộ 302 đi nhờ xe của người đàn ông không quen biết đến ngã ba xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, S xuống xe, người đàn ông đi đâu S không biết, S gặp người đàn ông hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ, người này đồng ý và đưa cho S 01 gói ma túy đá gói bằng túi nilon màu trắng. S cầm gói ma túy ở tay trái, đi nhờ xe của người đàn ông không quen biết để về nhà. Khi đến thôn S, thị trấn Đ, S xuống xe đi vào quán cà phê D của chị Đào Thị Ngọc A, sinh năm 1992 ở Tổ dân phố A, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc uống nước thì bị Công an huyện Tam Đảo phát hiện bắt quả tang và thu giữ 01 gói ma túy (niêm phong ký hiệu M1).
Tại Kết luận giám định số: 1510/KLGĐ ngày 26/6/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1903g (Không phảy một chín không ba gam, không kể bao bì), loại Methamphetamine. Hoàn trả lại đối tượng sau giám định, gồm: 0,1323g mẫu và toàn bộ bao gói.
Quá trình điều tra xác định: Người bán ma túy cho S và 02 người cho S đi nhờ xe, S không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Tại Bản cáo trạng số: 43/CT-VKSTĐ ngày 06/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Lê Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, phạt: Lê Văn S từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng và tính án phí theo quy định pháp luật.
Bị cáo Lê Văn S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lê Văn S thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 12 giờ ngày 22/6/2020, tại khu vực quán cà phê D ở Tổ dân phố A, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, Lê Văn S đang cất giấu 01 gói ma túy đá (0,1903g loại Methamphetamine), mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ... c) ... Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. Do đó, Bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma tuý là một tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, sói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà để thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng:
Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm 0,1323g mẫu và toàn bộ bao gói do không còn giá trị sử dụng.
[9] Về án phí: Bị cáo Lê Văn S phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lê Văn S 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22/6/2020).
3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm: 0,1323g mẫu và toàn bộ bao gói. (Có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2020).
4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc Lê Văn S phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu xét xử phúc thẩm
Bản án 43/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 43/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về