TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 43/2020/HS-PT NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 544/2019/TLPT-HS ngày 09/12/2019 đối với bị cáo Tô Trọng K do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 146/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Tô Trọng K, sinh năm 1982 tại Thành phố H; địa chỉ thường trú: 27/14 ấp T 1, xã TH, huyện HM, Thành phố H; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn B và bà Phan Thị D; bị cáo có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13/02/2015 bị Công an huyện B, tỉnh TN xử phạt hành chính số tiền 4.000.000 đồng theo Quyết định số 82/QĐ-XPHC về hành vi xuất cảnh trái phép; bị cáo tại ngoại “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/8/2017, Tô Trọng K có hợp đồng thuê xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51F-450.96 của bà Nguyễn Thị Thu N để tự lái. Do không có tiền tiêu xài nên K nảy sinh ý định thuê người khác làm giả giấy đăng ký xe và hợp đồng ủy quyền để cầm xe. K cung cấp thông tin cho người tên Lý Quốc C trên mạng Zalo có số điện thoại 0918779670 với giá 6.500.000 đồng để làm giấy tờ giả.
Sau khi làm giấy tờ xong, C giao cho K qua người chạy xe Grab. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 02/7/2018, K đến ngân hàng Agribank HM để chuyển 2.500.000 đồng qua số tài khoản 5909205136273 ngân hàng Agribank do Đỗ Quang M đứng tên chủ tài khoản. Qua ghi lời khai, ông M đưa thẻ cho Vũ Ngọc Q, ngụ tại 85 ấp P, xã PB, huyện TP, tỉnh Đ sử dụng. Qua xác minh ông Q không có mặt tại địa phượng, đi đâu không rõ.
Đến 16 giờ cùng ngày, K đến cửa hàng Viettel địa chỉ ấp 6/8 ấp Đông xã TTT, huyện HM để chuyển tiếp số tiền 4.000.000 đồng cho một tài khoản của Ngân hàng Sacombank, K không nhớ số tài khoản và người đứng tên chủ tài khoản.
Đến ngày 03/7/2018 K sử dụng giấy tờ giả mang đến tiệm cầm đồ Q địa chỉ 206 ấp 7, xã ĐT, huyện HM do anh Trương Quang N làm chủ để cầm chiếc xe ô tô trên với số tiền 300.000.000 đồng. Đến ngày 07/7/2018, K gọi điện thoại cho anh N yêu cầu cầm thêm từ chiếc xe trên 150.000.000 đồng nhưng anh N chỉ đồng ý cầm 100.000.000 đồng và hẹn đến 09 giờ ngày 08/7/2018 đến tiệm cầm đồ để giao dịch. Sau đó, anh N kiểm tra giấy tờ phát hiện có dấu hiệu làm giả nên anh đến Công an xã ĐT trình báo vụ việc.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Tô Trọng K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tiến hành làm việc với chủ xe chị Nguyễn Thị Thu N trình bày chỉ cho K thuê xe để sử dụng không có làm hợp đồng công chứng bán chiếc xe trên cho K. Giấy đăng ký xe ô tô biển số 51F-450.96 bản chính chị N vẫn giữ.
Đối với số điện thoại 0918779670 là của đối tượng C sử dụng trong mạng Zalo, qua xác minh số điện thoại này do Trần Xuân S, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú xã TT, huyện TN, tỉnh NĐ đứng tên chủ sở hữu. Qua ghi lời khai ông S không nhớ rõ đã đăng ký và sử dụng những số điện thoại nào, hiện ông không sử dụng số điện thoại này và ông cũng không biết ai đang sử dụng.
Đối với số tài khoản 5909205136273 ngân hàng Agribank do Đỗ Quang M mang tên chủ tài khoản. Qua ghi lời khai, ông M đưa thẻ này cho ông Vũ Ngọc Q, sinh năm 1989, ngụ 85 ấp PC, xã PB, huyện TP, tỉnh ĐN sử dụng. Qua xác minh ông Q không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ. Do đó, khi nào làm việc được với Q sẽ có hướng xử lý sau.
Vật chứng tạm giữ:
- 01 giấy đăng ký xe biển số 51F-450.96 mang tên Nguyễn Thị Thu N (bản chính); số tiền 8.000.000 đồng (số tiền chiếm đoạt còn lại của K); 01 hợp đồng ủy quyền ngày 18/5/2018 tại phòng công chứng số 5 giữa Tô Trọng K và Nguyễn Thị Thu N; 01 điện thoại di động hiệu VIVK (K sử dụng trong việc phạm tội).
- 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 hợp đồng bảo hiểm xe, 01 xe ô tô biển số 51F-450.96. Đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Thu N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho chị N quản lý.
Kết luận định giá tài sản số 147/2018 ngày 20/7/2018 của hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện HM kết luận: Chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova màu bạc biển số 51F-450.96, có giá 600.000.000 đồng.
Kết luận giám định số 964/KLGĐ-TT ngày 20/7/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận:
+ Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô là giả;
+ Hình giấu tròn có nội dung: “SỞ TƯ PHÁP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - PHÒNG CÔNG CHỨNG SỐ 5” không phải do cùng một con dấu đóng ra.
+ Không đủ cơ sở kết luận chữ ký mang tên Từ Dương T do cùng một người ký hay viết ra không.
Về dân sự: K đã bồi thường cho anh Trương Quang N số tiền 300.000.000 đồng. Anh N có đơn bãi nại và không có yêu cầu gì thêm Bà Nguyễn Thị Thu N đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 146/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Tô Trọng K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ khoản 3 Điều 174, điểm b điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Tô Trọng K 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 14/10/2019 bị cáo Tô Trọng K kháng cáo xin hưởng án treo.
- Ngày 30/10/2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 55/QĐ-VKS-P7 đề nghị hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại do có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và xử lý vật chứng không đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Trọng K khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo do có tình tiết mới là bà nội của bị cáo là người có công với cách mạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại do có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và xử lí vậy chứng không đúng quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận, nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 24/8/2017, bị cáo Tô Trọng K có hợp đồng thuê xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51F-450.96 của bà Nguyễn Thị Thu N để tự lái. Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo K đã thuê người làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và giấy ủy quyền đối với chiếc xe ô tô trên của bà Nguyễn Thị Thu N để đem cầm cho ông Trương Quang Nh với giá 300.000.000 đồng vào ngày 03/7/2018. Bị cáo K đã chiếm đoạt số tiền này của ông N.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Tô Trọng K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, ngoài hành vi này thì bị cáo K còn có hành vi làm giả giấy đăng ký xe và hợp đồng ủy quyền để cầm xe là xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, có dấu hiệu cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự. Do đó, trong vụ án này cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên xử lí vật chứng tịch thu tiêu hủy giấy đăng ký xe và hợp đồng ủy quyền, và sung quỹ số tiền 8.000.000 đồng của bị cáo K là không đúng quy định mà lẽ ra phải lưu các giấy tờ này vào hồ sơ vụ án vì đây là tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án, còn số tiền phải trả lại cho bị cáo do phần trách nhiệm dân sự bị cáo đã thực hiện xong.
[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H là đồng quan điểm với Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, do Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nên không xét đến kháng cáo của bị cáo K.
[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ vào điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H.
Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 146/2019/HS-ST ngày 01 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố H.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện HM, Thành phố H để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Bị cáo Tô Trọng K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 43/2020/HS-PT ngày 16/01/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 43/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về