Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 26/10/2020 về kiện xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 197/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Kim N, sinh năm 1995 Trú tại: Tổ 3 Tổ dân phố 8 phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình; Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đoàn Văn V, sinh năm 1986 Trú tại: Tổ 3 Tổ dân phố 8 phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình:

Vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 03/7/2020, được bổ sung tại bản tự khai, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Hồ Thị Kim N trình bày:

Về tình cảm: Chị và anh Đoàn Văn V có đăng ký kết hôn vào ngày 04/01/2019 tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Huế, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trong gia đình do anh V bỏ bê gia đình, ăn nhậu và cờ bạc. Mâu thuẫn cả về kinh tế lẫn lời ăn tiếng nói với nhau. Đến nay thì mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng không hòa giải được, vợ chồng không còn yêu thương và tôn trọng nhau, không quan tâm đến nhau. Nên nguyện vọng mong muốn Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh V để ổn định cuộc sống.

- Ý kiến của anh V tại bản tự khai ngày 28/7/2020 và phiên hòa giải lần 1 ngày 18/8/2020: Anh và chị Hồ Thị Kim N có đăng ký kết hôn vào ngày 04/01/2019 tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Huế, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong cuộc sống xảy ra một số mâu thuẫn do mới kết hôn nên chưa hiểu hết nhau về tính tình nên đôi khi anh V nóng nảy to tiếng làm tổn thương vợ. Anh V cũng thừa nhận đã phạm một số sai lầm làm tổn thương tình cảm vợ chồng nhưng tại phiên hòa giải anh xin trình bày là sẽ khắc phục không làm tổn thương vợ nữa. Trong khi con còn quá nhỏ nên anh V muốn chị N cho anh một cơ hội để sửa sai lầm, trường hợp một thời gian sau – tại phiên hòa giải sau mà chị N vẫn kiên quyết ly hôn thì anh cũng đành đồng ý ly hôn. Do đó, tại phiên hòa giải anh xin được đoàn tụ cùng vợ để nuôi con chung.

Về con chung: Chị N và anh V cùng khai có 01 con chung: cháu Đoàn Hồ Trúc L, sinh ngày: 07/11/2018.

Sau khi ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi con chung là cháu Đoàn Hồ Trúc L và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Anh V trình bày trường hợp bắt buộc phải ly hôn thì giao con chung cho mẹ nuôi, anh V cấp dưỡng nuôi con 1 triệu mỗi tháng đến khi con tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tiến hành triệu tập các bên đương sự đến làm bản tự khai, gửi giấy triệu tập cho các bên đương sự, tiến hành hai phiên hòa giải. Nhưng việc hòa giải không thành.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Chị Hồ Thị Kim N có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; là nơi bị đơn anh V có đăng ký tạm trú, cư trú và làm việc: phường L, thành phố H. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các bên đương sự, kèm theo giấy triệu tập đến Tòa án, thông báo về phiên hòa giải, tiếp cận chứng cứ, nhưng việc hòa giải không đem đến sự thỏa thuận, nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo luật định. Ngày 14/9/2020 Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới nhưng bị đơn anh V vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất. Do đó, HĐXX ra Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2020 và ấn định thời gian xét xử vào ngày 30/9/2020 theo đúng quy định tại Điều 227, 233 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn anh V có đơn xin hoãn phiên tòa vì lý do trở ngại khách quan, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 233, 235 Bộ luật tố tụng dân sự ra Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2020/QĐST- HNGĐ ngày 30/9/2020 và ấn định thời gian xét xử vào ngày 26/10/2020 nhưng bị đơn anh V vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ; HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, phiên tòa vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh V.

 [2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh V xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cấp có thẩm quyền. Vì vậy, hôn nhân của hai người là hoàn toàn hợp pháp; anh chị đã có thời gian chung sống, có 01 con chung; lẽ ra anh chị phải biết thương yêu, nhường nhịn, tôn trọng, tin tưởng nhau cùng nhau chia sẻ khó khăn xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ngược lại anh chị không làm được điều đó để giữ gìn hôn nhân bền vững, cuộc sống chung vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng bất đồng trong cách sống, cách xử sự với nhau, thiếu tin tưởng nhau, từ đó vợ chồng có những lời nói và hành động xử sự xúc phạm đến danh dự, uy tín của nhau, thiếu bàn bạc thống nhất vợ chồng, tình cảm vợ chồng mất mát dần.

Chị N cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng đã kéo dài từ khi kết hôn nhưng hai bên không thể khắc phục và ngày càng căng thẳng do không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng trong thực tế đời sồng. Tại phiên hòa giải lần 1 anh V cũng thừa nhận bản thân anh gây ra nhiều lỗi lầm làm tổn thương vợ.

Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên kiên quyết xin được ly hôn, anh V không đồng ý ly hôn xin được đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con chung. Anh V biết rõ vụ kiện nhưng cũng không có ý gì muốn níu kéo hôn nhân mà thờ ơ để mặc, anh cũng không mong muốn được Tòa án hòa giải tiếp, thể hiện ở việc anh không đến tham gia hòa giải cũng như phiên tòa mà Tòa án triệu tập. Điều đó thể hiện rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục, tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể sống chung hạnh phúc nên cần thiết phải cho chị N được ly hôn anh V là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình.

 [2.2] Về quan hệ con chung: Chị N và anh V cùng khai có 01 con chung:

cháu Đoàn Hồ Trúc L, sinh ngày: 07/11/2018.

Sau khi ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi con chung và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con tròn 18 tuổi.

Tại bản tự khai ngày 28/7/2020 và phiên hòa giải lần 1 ngày 18/8/2020 anh V trình bày trường hợp bắt buộc phải ly hôn thì giao con chung cho mẹ nuôi, anh V cấp dưỡng nuôi con 1 triệu mỗi tháng đến khi con tròn 18 tuổi. Nhưng tại đơn trình bày của anh V có dấu bưu điện gửi Tòa án ngày 01/9/2020 thì anh V mong Tòa xem xét động viên vợ anh rút đơn, còn nếu chị N kiên quyết ly hôn thì xin Tòa xem xét giao cháu Đoàn Hồ Trúc L, sinh ngày: 07/11/2018 cho anh V nuôi dưỡng để cháu L có tương lai.

Xét nguyện vọng của anh chị đều muốn được nuôi con chung là chính đáng, hai bên đều có đầy đủ năng lực sức khỏe, có lao động và thu nhập, cả chị N và anh V đều đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, vì hiện nay cháu Đoàn Hồ Trúc L còn nhỏ, chưa tròn 36 tháng tuổi, độ tuổi của cháu rất cần sự chăm sóc nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ. Căn cứ khoản 3 Điều 81, khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy cần thiết giao con chung là cháu Đoàn Hồ Trúc L, sinh ngày: 07/11/2018 cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh V có công việc thu nhập hàng tháng ổn định nên buộc anh V đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 10 năm 2020 cho đến khi cháu Đoàn Hồ Trúc L trưởng thành tròn 18 tuổi với mức 1.000.000 đồng/tháng như yêu cầu của chị N là phù hợp.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung:

Chị N và anh V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 5 khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/ 0006541 ngày 09/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

- Án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ: Anh V phải chịu 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

 [4] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hồ Thị Kim N được ly hôn anh Đoàn Văn V.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cháu Đoàn Hồ Trúc L, sinh ngày:

07/11/2018 cho chị Hồ Thị Kim N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và buộc anh Đoàn Văn V phải có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cùng chị Hồ Thị Kim N mỗi tháng 1.000.000 đồng kể từ tháng 10 năm 2020 cho đến khi cháu Đoàn Hồ Trúc L trưởng thành tròn 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Hồ Thị Kim N phải chịu án phí 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/ 0006541 ngày 09/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

- Án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ: Anh Đoàn Văn V phải chịu 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/10/2020); bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 26/10/2020 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về