TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 43/2019/HS-PT NGÀY 02/12/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 02/12/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2019/HSPT ngày 03/10/2019 do có kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với bản án hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 22/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình.
- Bị cáo không kháng cáo: Hà Minh D, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Xóm T, xã L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Hà Minh T (đã chết) và bà: Nguyễn Thị V, sinh năm 1964. Vợ: Cao Thị Ng; Có 03 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018
Tiền án: Không ; Tiền sự: Không
Bị cáo tại ngoại, hiện đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 04/2019/LCCT-TA ngày 20/3/2019.
- Bị hại không kháng cáo: Công ty TNHH KSTK
4. Địa chỉ: Số 599 Ng, T, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật của bị hại: ông Phạm Anh T - Giám đốc công ty
Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: ông Ngô Đức T - Cán bộ phòng TC - HC (văn bản ủy quyền số 03/UQQ - KSTK4 - P1 ngày 25/11/2019)
- Bị đơn dân sự không kháng cáo: Công ty TNHH KD.
Địa chỉ: Khu 5, thị trấn L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự: anh Võ Khánh D - Phó giám đốc công ty.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:
1. Ông Hoàng Minh Kh. Nơi cư trú: Số nhà 6, ngõ 33/3, đường Lương, V, quận H, thành phố Hà Nội.
2. Ngô Quốc V. Nơi cư trú: Chung cư T, C, T, Hà Nội.
3. Nguyễn Đức T. Nơi cư trú: Số 2C, ngõ 78, đường L, Hà Nội
4. Nguyễn Văn H. Nơi cư trú: 36 V, L, B , Hà Nội.
5. Đỗ Văn Ngh. Nơi cư trú: 49 Triều Khúc, quận T, Hà Nội.
6. Nguyễn Tuấn Kh. Địa chỉ: Đường T, quận H, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn C. Nơi cư trú: Ngã tư S, Hà Nội
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo: Tổng Công ty cổ phần BM.
Địa chỉ: 26 T, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Quang H - Phó giám đốc Trung tâm bồi thường xe ô tô thành phố H. Địa chỉ: Số 10 Phan Huy C, quận H, Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 06 giờ 10 phút ngày 28/3/2018, Hà Minh D là nhân viên phục vụ của Công ty TNHH KD (sau đây gọi là Công ty KD) điều khiển xe ô tô chở khách 45 chỗ, BKS 36B-012.27 đi từ nhà D đến ngã tư L, huyện T, Thanh Hóa để đón Trịnh Văn T là lái xe của Công ty KD. Sau khi lên xe, T nói với D: “Em đang mệt anh cứ lái tiếp đi”. D tiếp tục điều khiển xe đi theo đường Hồ Chí Minh đi Thái Nguyên theo lộ trình. Khi đi đến địa phận Phố S, huyện Y, Hòa Bình thì dừng xe cho khách nghỉ khoảng 15 phút, sau đó T nói với D cứ lái đi để T thu tiền khách cho. D điều khiển xe theo đường Hồ Chí Minh đi về hướng Xuân Mai. Đến khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày thì xe đi đến km 439+250 đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận Bến Cuối, Tr, L, Hòa Bình. Lúc này D quan sát thấy phía trước khoảng 50m có một chiếc xe mô tô BKS 36695 - H4 do ông Bùi Văn Th, điều khiển từ trong đường nhánh đi ra đường Hồ Chí Minh đang sang đường. D không giảm tốc độ xe mà vẫn cho xe chạy về trước với tốc độ khoảng 70km/h vì cho rằng ông Th sẽ điều khiển xe mô tô đi qua đường và D có thể tránh được. Khi xe ô tô do D điều khiển đi đến gần xe mô tô của ông Thông thì ông Thông hoảng sợ và nhảy ra khỏi xe mô tô, thấy vậy D điều khiển xe ô tô tránh về bên trái sang phần đường của xe đi ngược chiều dẫn đến đâm vào xe ô tô BKS 29B-101.28 của Công ty TNHH KSTK 4 (sau đây gọi là Công ty XD điện 4) do ông Hoàng Minh Kh điều khiển chạy theo hướng ngược lại. Hậu quả là những người ngồi trên xe 29B-101.28 gồm có ông Hoàng Minh Kh và các anh Nguyễn Văn H, Đỗ Văn Ngh, Nguyễn Tuấn Kh, Nguyễn Văn C, Ngô Quốc V, Nguyễn Đức T (là nhân viên của Công ty XD điện 4) đều bị thương, hai xe ô tô bị hư hỏng nặng. Đối với hành khách trên xe 36B-102.27 không có ai bị thương tích.
Kết quả khám nghiệm hiện trường: Vụ tai nạn giao thông xảy ra tại km 439+250, đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận Bến Cuối, Tr, L, Hòa Bình là đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng, tầm nhìn thoáng, đường áp phan áp dụng cho hai làn xe chạy, có vạch kẻ đứt quãng chia đôi phần đường, lòng đường rộng 10m. Điểm xảy ra tai nạn giao thông là khu vực có hiệu lực của biển báo nguy hiểm số 207a (giao nhau với đường không ưu tiên theo hướng Chợ B đi X). Thời tiết khi xảy ra tai nạn giao thông bình thường, mặt đường khô ráo, ánh sáng ban ngày. Đánh giá dấu vết để lại trên hiện trường xác định: Xe ô tô BKS 36B-102.27 di chuyển theo hướng Chợ B đi Xuân M, xe ô tô BKS 29B-101.28 di chuyển theo hướng Xuân M đi Chợ B (nằm ở làn đường của xe ô tô 29B-101.28, đo từ điểm va chạm vào mép đường là 0,20m).
Khám nghiệm phương tiện: Căn cứ các dấu vết để lại trên phương tiện xác định phần đầu xe bên phụ của xe ô tô 36B-102.27 đã đâm vào phần đầu bên lái của xe ô tô 29B-101.28 hình thành các dấu vết tập trung ở phần bên phải của xe ô tô 36B-102.27 (Bung, bật, nứt, vỡ, bẹp, lõm: gương chiếu hậu bên phải, kính chắn gió phía trước, cần gạt nước phải trước, đèn chiếu sang và đèn tín hiệu phía trước bên phải, ba đờ sốc trước, bậc thang lên xuống, chắn bùn phía trước lốp trước bên phải) và phần bên trái của xe ô tô BKS 29B-101.28 (Bung, bật, nứt, vỡ, bẹp, lõm: Nóc xe phía trước, kính chắn gió phía trước, nắp ca bô, ba đờ sốc phía trước, đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu phải trước, cánh cửa lái bên trái, gương chiếu hậu bên trái, kính chắn gió thứ hai bên trái, la zăng bánh lốp trước bên trái).
Quá trình điều tra, Công an huyện L đã ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với ông Hoàng Minh Kh và các anh Nguyễn Văn H, Đỗ Văn Ngh, Nguyễn Tuấn Kh, Nguyễn Văn C, Ngô Quốc V, Nguyễn Đức T để có căn cứ giải quyết. Tuy nhiên những người này đều từ chối giám định, xin tự hòa giải.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 23/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện L đã kết luận: Những bộ phận hư hỏng của chiếc xe ô tô BKS 29B-101.28 có giá trị hiện tại là 449.307.000đ (Bốn trăm bốn mươi chín triệu ba trăm linh bảy nghìn đồng).
Đối với xe ô tô chở khách của Công ty KD, cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá thiệt hại nhưng Công ty KD từ chối định giá tài sản để tự khắc phục, sửa chữa, không yêu cầu giải quyết.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe ô tô BKS 29B-101.28 của Công ty Điện 4 (Đã trả cho chủ sở hữu)
- 01 xe ô tô BKS36B-012.27 của Công ty KD (Đã trả cho chủ sở hữu)
- 01 xe mô tô BKS 36695H4 của ông Bùi Văn Th (Đã trả cho chủ sở hữu)
- 01 Giấy phép lái xe hạng C, số 380164004318 mang tên Hà Minh D do Sở Giao thông vận tải tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 17/3/2016.
Về dân sự: Bị cáo Hà Minh D cùng Công ty KD đã bồi thường cho ông Hoàng Minh Kh 70.000.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn H 50.000.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Đức T 7.000.000đ.
Về xử lý vật chứng: Các xe ô tô 29B-101.28, xe 36B-102.27 và xe mô tô BKS 36695H4 đã trả cho các chủ sở hữu nên không đề cập xử lý.
Đối với Giấy phép lái xe số 380164004318 mang tên Hà Minh D do Sở Giao thông vận tải tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 17/3/2016, đề nghị HĐXX xem xét trả lại cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc Công ty KD bồi hoàn cho Tổng công ty BM số tiền 449.307.000đ.
Đại diện Tổng công ty BM đưa ra ý kiến: Căn cứ Hợp đồng bảo hiểm giữa BM và Công ty điện 4, Tổng công ty BM đã hoàn tất thủ tục bồi thường cho Công ty điện 4 số tiền thiệt hại theo hồ sơ thẩm định giá ngày 08/11/2018 là 680.000.000đ, BM đã nhận quyền yêu cầu bồi hoàn từ Công ty điện 4. Nay BM yêu cầu Công ty KD phải bồi hoàn cho BM số tiền thiệt hại là 680.000.000đ, tiền chi phí thẩm định giá là 19.000.000đ, tổng số tiền yêu cầu bồi thường là 699.000.000đ, Công ty KD được nhận về xe ô tô BKS 29B-101.28. Việc BM và Công ty điện 4 tiến hành thẩm định giá độc lập là vẫn đúng quy định.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/2019/ HSST ngày 22/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đã quyết định:
Tuyên bố: Hà Minh D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự
Xử phạt bị cáo Hà Minh D 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Cấm bị cáo Hà Minh D hành nghề lái xe trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành.
Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 589, 601 Bộ luật dân sự,
Buộc Công ty TNHH KD phải bồi hoàn số tiền 449.307.000 (Bốn trăm bốn mươi chín triệu ba trăm linh bảy nghìn đồng) cho Tổng công ty BM.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hà Minh D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Công ty KD phải nộp 21.972.000đ (hai mươi mốt triệu chín trăm bảy mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Tổng Công ty BM phải nộp 12.484.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền 249.693.000đ yêu cầu bồi hoàn không được chấp nhận.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về quyền kháng cáo của: Bị cáo, bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Ngày 30/8/2019 Tổng Công ty cổ phần BM là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có đơn kháng cáo toàn bộ phần trách nhiệm dân sự của bản án. Đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của BM. Buộc Công ty TNHH KD phải bồi hoàn cho Công ty BM 680.000.000đ là số tiền mà BM có trách nhiệm bồi thường bảo hiểm cho Công ty TNHH MTV Khảo sát thiết kế xây dựng điện 4 liên quan đến vụ tai nạn. Công ty cổ phần BM không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty BM giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Về nội dung: Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần BM, đề nghị hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện L; Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hợp pháp.
Công ty cổ phần BM kháng cáo trong thời hạn luật định được chấp nhận.
[2] Về nội dung: Khoảng 9h45 ngày 28/3/2018 Hà Minh D là nhân viên phục vụ của công ty KD, không có giấy phép lái xe theo quy định nhưng đã điều khiển xe ô tô chở khách 45 chỗ BKS 36B- 012.27 đi từ Thanh Hóa đi Thái Nguyên. Đến địa phận Bến Cuối, Tr, L, Hòa Bình, do có chướng ngại vật, phải tránh xe mô tô đang sang đường, bị cáo đã đánh lái sang trái đường. Đã đâm va vào xe ô tô 29B - 101.28 của Công ty xây dựng điện 4.
Hậu quả xe ô tô 29B-101.28 của Công ty xây dựng điện 4 hỏng nặng, thiệt hại theo kết quả định giá là 499.307.000đ
Một số người trên xe của Công ty điện 4 bị thương phải đi điều trị tại Bệnh viện đều từ chối giám định.
Bị cáo không có giấy phép lái xe theo quy định, lái xe gây tai nạn thiệt hại là 449.307.000đ. Hành vi của bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ. Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
Tổng công ty cổ phần BM nhận thế quyền từ Công ty xây dựng điện 4 kháng cáo đề nghị buộc Công ty KD phải bồi hoàn cho Công ty cổ phần BM 680.000.000đ, đề nghị không phải chịu án phí. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tai nạn xảy ra ngày 28/3/2018. Ngày 23/7/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L, tỉnh Hòa Bình đã định giá thiệt hại xe ô tô 29B - 101.28 kết luận tổng thiệt hại là 449.307.000đ. Công ty điện 4 không khiếu nại kết quả định giá này, mà tự thuê Công ty cổ phần giám định và thẩm định giá Ph để định giá lại thiệt hại xe 29B - 101.28, theo kết quả định giá lại ngày 08/11/2018 thì giá trị thiệt hại là 680.000.000đ. Việc trưng cầu thẩm định và định giá lại này không đúng với quy định tại Điều 215, 218 Bộ luật Tố tụng hình sự nên không được chấp nhận.
Tại phiên tòa Tổng công ty cổ phần BM không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí: Tổng công ty cổ phần BM phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Tông công ty cổ phần BM; Giữ nguyên bản án số 33/2019/HSST ngày 22/8/2019 của TAND huyện L, tỉnh Hòa Bình. Cụ thể:
1. Tuyên bố: Hà Minh D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Hà Minh D 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Hà Minh D cho Uỷ ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp có thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Cấm bị cáo Hà Minh D hành nghề lái xe trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 589, 601 Bộ luật dân sự,
Buộc Công ty TNHH KD phải bồi hoàn số tiền 449.307.000 (Bốn trăm bốn mươi chín triệu ba trăm linh bảy nghìn đồng) cho Tổng công ty cổ phần BM.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tổng Công ty BM phải nộp 12.484.000đ (mười hai triệu bốn trăm tám mươi tư nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền 249.693.000đ (hai trăm bốn mươi chín triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn đồng) yêu cầu bồi hoàn không được chấp nhận và 200.000đ án phí HS/PT.
4. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 43/2019/HS-PT ngày 02/12/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 43/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về