TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 272/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 về việc: Ly hôn. Theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1987
Địa chỉ: Thôn G, xã Lang Thíp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân S, sinh năm 1985
Địa chỉ: Thôn G, xã Lang Thíp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày: Tôi và anh S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện. Đăng ký ngày 17/10/2005 tại UBND xã Lang Thíp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau thời gian đầu hạnh phúc. Đến đầu năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách quan điểm sống bất đồng dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Hai bên gia đình đã thuyết phục và khuyên giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn thường xuyên xảy ra. Chúng tôi đã sống ly thân nhau từ tháng 1/2018 cho đến nay không ai quan tâm đến ai cả. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn. Đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn anh S.
* Về con chung: Có 02 cháu: Nguyễn Thị Khánh L sinh ngày 23/6/2006; Nguyễn Huyền T sinh ngày 13/8/2014. Khi ly hôn tôi nhận nuôi hai con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.
* Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án. Tòa án nhân dân huyện Văn Yên đã nhiều lần báo gọi và gửi Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh S không có mặt theo các giấy tờ của Tòa án. Hiện nay hộ khẩu anh S tại thôn G, xã Lang Thíp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Những lần Tòa án gửi các giấy tờ cho anh S, bà Hoàng Thị T là mẹ đẻ của anh S đã nhận và thông báo cho anh S biết việc Tòa án đang giải quyết việc ly hôn giữa chị H và anh nhưng anh S cố tình trốn tránh không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nên Tòa án không thể lấy lời khai và hòa giải theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự được.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự, quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh S. Áp dụng điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình xử giao hai cháu Nguyễn Thị Khánh L và Nguyễn Huyền T cho chị H nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp về Hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của Tòa án là đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã triệu tập bị đơn hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Tòa án tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về tư cách người tham gia tố tụng: Tòa án đã xác định đúng tư cách của người tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Xuân S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Lang Thíp, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái vào ngày 17 tháng 10 năm 2005 là hôn nhân hợp pháp. Chị H cho rằng sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau thời gian đầu hạnh phúc. Đến đầu năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách quan điểm sống bất đồng dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Hai bên gia đình đã thuyết phục và khuyên giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn thường xuyên xảy ra. Anh chị đã sống ly thân nhau từ tháng 1/2018 cho đến nay không ai quan tâm đến ai cả. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn. Chị H xin ly hôn anh S là có căn cứ.
Tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự, phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Đã xác định mâu thuẫn vợ chồng xảy ra hiện nay chị H và anh S đã sống ly thân nhau không ai quan tâm đến ai cả. Từ đó có căn cứ cho rằng tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh S đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để xử cho chị H được ly hôn anh S là có căn cứ.
[4] Về con chung: Có 02 cháu: Nguyễn Thị Khánh L sinh ngày 23/6/2006; Nguyễn Huyền T sinh ngày 13/8/2014. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho các cháu được ổn định, đầy đủ và theo nguyện vọng của cháu. Do vậy cần giao hai cháu L và T cho chị H nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân gia đình.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56; 57; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Nguyễn Xuân S.
2. Về nuôi con chung: Xử giao cháu Nguyễn Thị Khánh L sinh ngày 23/6/2006 và Nguyễn Huyền T sinh ngày 13/8/2014 cho chị Vũ Thị H trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Xuân S không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con không ai được ngăn cản.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: AA/2017/0001516 ngày 13/9/2019 tại Thi hành án dân sự huyện Văn Yên. Xác nhận chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Xuân S vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 43/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về