Bản án 43/2017/DS-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN

​​BẢN ÁN 43/2017/DS-ST NGÀY 18/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2017/TLST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2017 về tranh chấp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2017/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1968; (có mặt) 

2. Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1969; (có mặt) Cùng địa chỉ: Khu 1B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.

- Bị đơn

 1. Ông Lê Văn U, sinh năm 1974; (vắng mặt)

2. Bà Phạm Kiều L, sinh năm 1977; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khu 1B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 29/6/2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị U trình bày: vợ chồng bà làm chủ thào hụi, bà L là hụi viên, giữa bà và bà L cũng là chị em bạn dâu với nhau nên bà tin tưởng cho cho bà L tham gia nhiều dây hụi. Sau khi bà L tham gia chơi các dây hụi đều đã hốt và bà đã giao đủ tiền hụi nhưng sau đó bà L không đóng lại hụi đầy đủ nên nay bà khởi kiện yêu cầu bà L phải trả tiền nợ hụi cho bà. Cụ thể các dây hụi như sau:

+ Dây thứ 1: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, mở hụi ngày 10/9/2015 âm lịch (sau đây viết tắt là AL), gồm 21 phần, bà L tham gia 2 phần. Hụi đã mãn vào ngày 15/5/2017AL. Bà L đóng được 19 tháng, còn lại 02 tháng chưa đóng với số tiền: 1.000.000đ x 2 tháng = 2.000.000đ.

+ Dây thứ 2: loại hụi tháng, mỗi tháng 500.000đ, mở hụi ngày 15/7/2015AL, gồm 24 phần, bà L tham gia 2 phần. Hụi đã mãn vào ngày 15/6/2017AL. Bà L đóng được 14 tháng, còn lại 10 tháng chưa đóng với số tiền: (500.000đ x 2) x 10 tháng = 10.000.000đ.

+ Dây thứ 3: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, mở hụi ngày 15/10/2015AL, gồm 21 phần, bà L tham gia 1 phần. Hụi đã mãn vào ngày 15/6/2017AL.Bà L đóng được 11 tháng, còn lại 10 tháng chưa đóng với số tiền: 1.000.000đ x 10 tháng = 10.000.000đ.

+ Dây thứ 4: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, mở hụi ngày 20/3/2016AL, gồm 22 phần, bà L tham gia 1 phần. Hụi mãn vào ngày 20/11/2017AL. Bà L đóng được 6 tháng thì ngưng, tính đến tháng 7/2017AL là 11 tháng chưa đóng với số tiền: 1.000.000đ x 11 tháng = 11.000.000đ. Phần hụi chưa mãn nếu sau này bà L không đóng thì bà sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.

Ngoài ra, bà L còn mượn 4 phần hụi dưới tên của bà Lê Thị Hường (tên gọi khác Mẫu), việc này là thỏa thuận giữa bà với bà L, không liên quan đến bà Hường nên bà chỉ yêu cầu bà L trả phần tiền hụi mượn cho bà, cụ thể như sau:

+ Dây thứ 1: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, 21 phần, mở hụi ngày 10/9/2015AL. Bà L hốt hụi ngày 10/12/2015 AL; phần hụi này đã mãn, số tiền bà L còn nợ lại bà chưa đóng là 18.500.000đ.

+ Dây thứ 2: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, 21 phần, mở hụi ngày 10/9/2015AL. Bà L hốt hụi ngày 10/02/2016 AL; phần hụi này đã mãn, số tiền bà L còn nợ lại bà chưa đóng là 18.500.000đ.

+ Dây thứ 3: loại hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, 22 phần, mở hụi ngày 20/3/2016AL. Bà L hốt hụi ngày 20/4/2016 AL. Dây hụi này chưa mãn, tính đến tháng 7/2017AL số tiền bà L còn nợ lại bà chưa đóng là 16.500.000đ.

+ Dây thứ 4: loại hụi tháng, mỗi tháng 2.000.000đ, 21 phần, mở hụi ngày 20/02/2016AL. Bà L đã hốt ngày 20/3/2016 AL. Dây hụi này chưa mãn, tính đến tháng 7/2017AL số tiền bà L còn nợ lại bà chưa đóng là 35.000.000đ.

Trong phần hụi mượn này bà L còn nợ bà số tiền 6.180.000đ do bà phải nhiều lần cho bà L mượn để đóng vào cho đủ phần hụi của bà L. Do đó, tổng số tiền nợ hụi bà L chưa thanh toán cho bà tính đến tháng 7/2017AL là 127.680.000đ.

Khi tham gia chơi hụi bà chỉ thực hiện giao dịch với mình bà L, ông U chồng bà L không biết và không lần nào giao dịch với bà. Mặc dù bà là chị dâu ông U nhưng bà không nói chuyện với ông U. Khi bà L không đóng hụi, bà đến nhà yêu cầu bà L đóng hụi thì mới gặp ông U và ông U mới biết, ông U có nặng lời với bà nên bà mới khởi kiện yêu cầu ông U phải có trách nhiệm trả nợ cùng bà L. Trong quá trình Tòa án hòa giải bà có trình bày ông U không liên quan nên bà không yêu cầu ông U trả nợ, tuy nhiên bà nghĩ ông U là chồng bà L thì phải có trách nhiệm liên đới trả nợ với bà L, bà nghĩ bà L sử dụng tiền hụi vào sinh hoạt gia đình nên nay bà yêu cầu bà L và ông U cùng phải liên đới trả vợ chồng bà số nợ hụi là 127.680.000đ, không yêu cầu tính lãi. Đối với các khoản hụi chưa đến hạn thì sau này bà sẽ tranh chấp bằng vụ án khác.

- Nguyên đơn ông Lê Văn T là chồng của bà U cũng cùng ý kiến với bà Nguyễn Thị U. Ông T yêu cầu vợ chồng ông U, bà L phải liên đới trả vợ chồng ông số tiền nợ hụi 127.680.000đ, không yêu cầu tính lãi.

- Tại biên bản hòa giải ngày 22/8/2017, ngày 29/8/2017 và và các lời khai tại Tòa án, bị đơn bà Phạm Kiều L trình bày: bà thừa nhận có tham gia chơi hụi do vợ chồng ông T, bà U làm chủ thảo. Bà thừa nhận số tiền các dây hụi mà bà nợ lại chưa trả cho bà U và số tiền mượn đóng hụi như lời trình bày của bà U là đúng. Bà đồng ý chịu trách nhiệm trả bà U số tiền nợ hụi tổng cộng là 127.680.000đ, nhưng hiện tại hoàn cảnh bà khó khăn nên không thể trả một lần số tiền cho bà U, bà sẽ trả dần cho bà U, thời gian cụ thể trả thế nào thì bà chưa xác định, tùy vào điều kiện kinh tế của bà. Khi bà tham gia chơi hụi ông U là chồng bà không biết và cũng không liên quan vì bà sử dụng số tiền hụi để chi xài cá nhân hàng ngày, ông U không sử dụng khoản tiền này. Đến khi bà U đến đòi nợ hụi thì ông U mới biết và hiện tại vợ chồng đang mâu thuẩn về vấn đề này. Bà xác định số tiền hụi này do bà trực tiếp sử dụng, không liên quan đến ông U nên bà tự chịu trách nhiệm trả, không yêu cầu ông U phải liên đới trả nợ với bà. Đối với việc vợ chồng bà U, ông T yêu cầu ông U phải cùng liên đới trả nợ thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Tại biên bản hòa giải ngày 22/8/2017 và và các lời khai tại Tòa án, bị đơn ông Lê Văn U trình bày: Ông là chồng của bà L. Khoảng năm, sáu tháng gần đây khi đổ bể vụ nợ hụi của bà L thì bà L bỏ đi nên vợ chồng đã ly thân. Còn trước đó thì vợ chồng vẫn sống chung nhà, tuy nhiên việc bà L chơi hụi của vợ chồng bà U ông hoàn toàn không biết. Khi sống chung thì vợ chồng vẫn sinh hoạt chung, ăn uống chung và cùng lo cho gia đình, con cái. Nguồn tiền đề lo cho sinh hoạt gia đình là do hai vợ chồng cùng lo, ông và bà L cùng đi làm thuê, thu nhập không ổn định tuy nhiên cũng đủ đảm bảo cho cuộc sống, ông đi làm hàng tháng đều đưa tiền cho bà L lo cho gia đình. Nay việc chơi hụi này không liên quan đến ông nên ông không đồng ý cùng liên đới trả nợ hụi cho vợ chồng bà U.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với ông Lê Văn U, bà Phạm Kiều L có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông Lê Văn U, bà Phạm Kiều L.

[2] Về nội dung: vợ chồng ông Lê Văn T, bà Nguyễn Thị U khởi kiện vợ chồng ông Lê Văn U, bà Phạm Kiều L là tranh chấp hụi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại Điều 26, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự cho thấy vợ chồng bà U, ông T là chủ thảo hụi, bà L là hụi viên. Bà L đã tham gia một số dây hụi, sau khi hốt hụi bà U đã giao đủ tiền hụi cho bà L nhưng bà L chưa thanh toán đầy đủ tiền hụi cho bà U. Tại biên bản hòa giải ngày 29/8/2017 bà L đã thừa nhận còn nợ lại vợ chồng bà U tổng số tiền hụi chưa thanh toán là 127.680.000đ, do đó vợ chồng bà U, ông T yêu cầu bà L thanh toán số tiền nợ hụi 127.680.000đ là có căn cứ chấp nhận.

Đối với yêu cầu thực hiện nghĩa vụ liên đới: Hội đồng xét xử xét thấy, bà L và ông U đều trình bày việc tham gia chơi hụi là giữa bà L với vợ chồng ông T, bà U thì ông U không biết và không sử dụng đến số tiền hụi này, bà L sử dụng số tiền hụi vào chi tiêu cá nhân. Vợ chồng ông T, bà U cũng thừa nhận khi thực hiện giao dịch hụi chỉ có bà L tham gia, ông U chồng bà L không biết và không có tham gia bất kỳ giao dịch hụi nào với vợ chồng bà U. Vợ chồng ông T, bà U cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh bà L sử dụng số tiền hụi vào các sinh hoạt thiết yếu của gia đình bà L, ông U. Căn cứ vào Điều 27, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình, việc vợ chồng ông T, bà U cho rằng ông U là chồng bà L thì phải chịu trách nhiệm liên đới cùng bà L trả nợ là không có căn cứ nên không chấp nhận.

Về án phí: các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được Tòa án chấp nhận theo Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và nghị quyết về án phí, lệ phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị U và ông Lê Văn T đối với bà Phạm Kiều L về việc tranh chấp hụi.

Buộc bà Phạm Kiều L trả vợ chồng bà Nguyễn Thị U và ông Lê Văn T số tiền nợ hụi là 127.680.000đ (một trăm hai mươi bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người đựơc thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị U và ông Lê Văn T về việc yêu cầu ông Lê Văn U liên đới trả nợ cùng với bà Phạm Kiều L.

Về án phí: Bà Phạm Kiều L phải chịu 6.384.000đ án phí dân sự sơ thẩm sung công Nhà nước. Hoàn lại vợ chồng bà Nguyễn Thị U và ông Lê Văn T 3.517.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0000252 ngày 09/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Long An.

Đương sự có mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quýêt định đựơc thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quỳên thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2017/DS-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hụi

Số hiệu:43/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về