Bản án 429/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 429/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Văn phòng khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 416/2019/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 441/2019/HSST-QĐ ngày 18/11/2019 đối với bị cáo:

Đào Ngọc D, sinh năm 1989 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Tổ dân phố 3, thị trấn X, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: phụ xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Đào Tấn T, sinh năm 1958 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị L, sinh năm 1992 và có 01 con sinh năm 2010 .

Tiền án: Ngày 10/8/2017, Tòa án Nhân dân Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 249, ngày 20/2/2017 nộp xong án phí, chấp hành xong hình phạt tù tháng 10/2017.

Nhân thân:

+ Ngày 13/11/2013 Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 1 năm 6 tháng 22 ngày về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo nộp án phí ngày 26/5/2014 Bị bắt giam ngày 13/8/2019.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án

1. Chị Hoàng Thị A, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ 6 khu phố T, phường H, thị xã K, tỉnh Bình Dương

2. Anh Phạm Chánh N, sinh năm 1961; địa chỉ: Ấp C xã A, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

Người chứng:

1. Chị Phùng Thị Lệ Q.

2. Anh Lê Trần Minh V.

3. Anh Nguyễn Hữu H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Đào Ngọc D sử dụng ma túy từ tháng 7/2019, khoảng 18 giờ ngày 12/8/2019, D đón xe mô tô chở khách đến khu vực ngã tư An Sương, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp người tên Tuấn (không rõ nhân thân) mua 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy với giá 500.000 đồng, D xin thêm 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. D cất gói nylon trong túi quần rồi đón xe mô tô đi về phòng trọ. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, D đến phòng trọ của chị Hoàng Thị A mượn xe mô tô hiệu Suzuki, biển số 60M2-4740 điều khiển đến thuê phòng số 05 tại nhà nghỉ Ngọc Thành Phát địa chỉ số 55/1A, khu phố Tân An, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Sau đó D lấy một phần ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại D hàn kín cất giấu trong gói thuốc lá hiệu Jet để trên bàn. D điện thoại cho Phùng Thị Lệ Q rủ đến chơi. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày khi Q đến, D cùng Q sử dụng ma túy. Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày, D điện thoại nhờ Lê Trần Minh V mua dùm thẻ card điện thoại, khi V mang thẻ điện thoại đến, D cho V sử dụng chung ma túy. Đến 0 giờ 40 phút ngày 13/8/2019, Công an phường Tân Đông Hiệp kiểm tra hành chính phòng trọ do D thuê thu giữ trên bàn cạnh giường trong phòng 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển số 60M2-4740, D khai nhận ma túy chứa trong gói nylon nên bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số 622/MT-PC09 ngày 21/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu giữ từ D gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,2170 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng đã xử lý: Trả lại xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, số khung 49L- 030107576, số máy E432-VN107576, biển số 60M2-4740 cho chị Hoàng Thị A, do chị A không biết D mượn xe đi sử dụng ma túy.

Cáo trạng số 425/CT - VKS ngày 12/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đào Ngọc D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D từ 20 đến 24 tháng tù. Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy, vỏ bao thuốc lá hiệu jet.

Bị cáo D không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo D nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận việc mình làm, xin được giảm nhẹ mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 13/8/2019, lời khai người làm chứng, biên bản lấy lời khai bị cáo và trình bày tại phiên tòa thể hiện bị cáo Đào Ngọc D sử dụng ma túy, ngày 13/8/2019 khi kiểm tra hành chính phòng trọ do D thuê, thu giữ ma túy có khối lượng 1,2170 gam loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo D đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 425/CT-VKS ngày 12/11/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D chưa được xóa án tích tại bản án số 249 ngày 10/8/2017, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo D có nhân thân rất xấu thể hiện việc sử dụng ma túy trong thời gian dài, đã bị xét xử phạt tù về hành vi Trộm cắp tài sản. Lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo D phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Jet; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Trong vụ án còn có người tên Tuấn bán ma túy cho D do không xác định được nhân thân, Phùng Thị Lệ Q, Lê Trần Minh V sử dụng ma túy và không biết D cất giấu ma túy. Công an thị xã Dĩ an tách xác minh xử lý sau đối với Tuấn, xử phạt hành chính bằng tiền đối với Q, V là phù hợp.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng cũng như mức hình phạt đối với bị cáo D. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo D phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đào Ngọc D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Ngọc D 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong bên trong có ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng còn lại sau giám định là 1,1216 gam; 01 vỏ bao thuốc lá Jet; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2019.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Đào Ngọc D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 429/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:429/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về