Bản án 428/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn giữa chị H và anh T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 428/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH T

Trong ngày 18 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 758/2018/TLST-HNGĐ ngày 04/12/2018 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2019/QĐST-HPT ngày 23 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Kim H, sinh năm: 1976 (có mặt)

Hộ khẩu thường trú: 510 đường L, phường C, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

 2. Bị đơn: Anh Lê Chí T, sinh năm: 1978 (vắng mặt)

Hộ khẩu thường trú: 482/2 đường T, khóm B, phường M, thị xã S, tỉnh Đồng Tháp;

Địa chỉ cư trú: 165/22/9A Phòng số 20, đường N, phường M, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn nộp ngày 11/10/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Bùi Kim H trình bày: Chị và anh Lê Chí T tự nguyện chung sống với nhau năm 2003, đến năm 2005 có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 114, quyển số 01 ngày 15/9/2008, có 02 con chung tên Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014.

Sau khi cưới, chị H và anh T sống tại nhà thuê. Đến cuối năm 2005 thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn do chị H phát hiện anh T chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần khiến chị phải nhiều lần trả nợ thay. Tuy nhiên, vợ chồng tự hòa giải và tiếp tục chung sống. Đến năm 2010 mâu thuẫn trở nên gay gắt do vợ chồng không hòa hợp nhau về tính tình, quan điểm sống, anh T không có trách nhiệm với gia đình, còn có tình cảm với người phụ nữ khác. Chị H đã nhiều lần khuyên nhủ anh T thay đổi tính tình nhưng không có kết quả nên chị H đã nộp đơn xin ly hôn. Sau khi được Tòa án hòa giải, chị H đã rút đơn ly hôn tạo điều kiện cho anh T sửa đổi tính tình nhưng trái lại mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt và đã ly thân từ cuối năm 2014 cho đến nay. Chị Bùi Kim H xác định không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Lê Chí T.

Về con chung: Chị Bùi Kim H yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung tên Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014, không yêu cầu anh Lê Chí T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Kim H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn anh Lê Chí T đã được Tòa án triệu tập đến Tòa để trình bày ý kiến về việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn nhưng cố tình vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi nhận ý kiến và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Bùi Kim H vẫn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày, ngoài ra không có yêu cầu gì khác. Bị đơn anh Lê Chí T vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đều đảm bảo đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng của chị Bùi Kim H và anh Lê Chí T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Kim H được ly hôn với anh Lê Chí T. Về con chung: Giao hai con chung tên Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014 cho chị Bùi Kim H nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên, chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 về việc chấp hành pháp luật tố tụng và nội dung của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Hình thức, nội dung đơn yêu cầu ly hôn của chị Bùi Kim H thực hiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2]. Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Bùi Kim H đối với bị đơn anh Lê Chí T có nơi cư trú tại Quận 6 nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3]. Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Kim H và anh Lê Chí T phát sinh từ năm 2005, đến năm 2008 có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là hôn nhân hợp pháp.

[4]. Về yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn:

Theo nguyên đơn chị Bùi Kim H trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ cuối năm 2005 do anh T chơi cờ bạc gây nợ nần khiến chị phải nhiều lần trả nợ thay. Từ năm 2010 mâu thuẫn vợ chồng trở nên gay gắt do chị H phát hiện anh T có tình cảm với người phụ nữ khác, không sửa đổi tính tình còn tiếp tục chơi cờ bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình nên chị đã nộp đơn xin ly hôn anh T. Tuy nhiên, chị H đã rút đơn xin ly hôn tạo điều kiện cho anh T thay đổi tính tình, vợ chồng cùng nuôi dạy con chung nhưng không có kết quả nên vợ chồng thường xảy ra gây cãi. Từ cuối năm 2014, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và đã ly thân cho đến nay. Chị Bùi Kim H xác định không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Lê Chí T.

Phía bị đơn anh Lê Chí T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không ghi nhận được ý kiến.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình...” nhưng qua lời trình bày của nguyên đơn thì giữa chị H, anh T đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, cả hai đã không có sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau vun đắp cho cuộc sống gia đình. Từ cuối năm 2014 thì mâu thuẫn vợ chồng trở nên gay gắt, thường xảy ra gây cãi và đã ly thân cho đến nay. Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng chị H, anh T hàn gắn tình cảm, trở về đoàn tụ, tuy nhiên, phía bị đơn anh Lê Chí T vắng mặt không lý do, do vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng của chị Bùi Kim H và anh Lê Chí T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở.

[5]. Về con chung: Hiện nay hai cháu Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014 đang sống cùng chị Bùi Kim H. Chị H có yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi thành niên. Vì lợi ích về mọi mặt của trẻ, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận giao hai cháu Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014 cho chị Bùi Kim H nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Kim H xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Bùi Kim H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Kim H và anh Lê Chí T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 9, 14, 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự năm 2008; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Kim H và anh Lê Chí T. Giấy chứng nhận kết hôn số 114, quyển số 01/2008 ngày 15/9/2008 do Ủy ban nhân dân phường C, quận S, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung: Giao hai cháu Lê Bùi Kim N, sinh ngày 04/01/2009 và Lê Bùi Gia K, sinh ngày 26/11/2014 cho chị Bùi Kim H nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Chị Bùi Kim H không yêu cầu anh Lê Chí T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Chí T có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với chị Bùi Kim H.

Anh Lê Chí T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

 Trường hợp anh Lê Chí T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Bùi Kim H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Lê Chí T.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết đôi bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Kim H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Bùi Kim H nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được tính vào số tiền tạm nộp án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010443 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị Bùi Kim H đã nộp đủ án phí.

5. Chị Bùi Kim H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Chí T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 428/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về ly hôn giữa chị H và anh T

Số hiệu:428/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về