Bản án 425/2018/HNGĐ-ST ngày 22/08/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 425/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 22-8-2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 321/2018/TLST-HNGĐ ngày 05-7-2018 về việc “Ly hôn và giải quyết con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09-8-2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1988

Nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1979

Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 83 đường M, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định

Nơi cư trú: Số nhà 10/422 đường T, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định

Tại phiên tòa chị T có mặt; anh T có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 05-7-2018, quá trình tham gia tố tụng tại Toà án và tại phiên toà nguyên đơn chị Thao trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2010 tại Uỷ ban nhân dân phường N, thành phố N. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 6 tháng thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân là do anh T không quan tâm, chăm sóc, chia sẻ với chị mà thường xuyên bỏ nhà đi chơi. Bản thân anh T nợ nần nhiều, chủ nợ thường tới nhà đe dọa làm cho cuộc sống của gia đình căng thẳng. Chị đã đưa con bỏ về nhà bố mẹ ở, vợ chồng sống ly thân đã nhiều năm nay. Chị xác định tình cảm không còn nên xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Minh K, sinh ngày 08-12-2013. Hiện tại cháu K đang ở cùng với chị. Nếu ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt ghi ngày 18-7-2018 anh Nguyễn Văn T trình bày: Xác nhận vợ chồng sống ly thân từ nhiều năm nay, không còn quan tâm đến nhau nữa nên chị T xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh xác nhận vợ chồng có một con chung như chị T trình bày. Anh đồng ý để chị T nuôi dưỡng con chung; việc cấp dưỡng nuôi con chị T yêu cầu như thế nào anh cũng đồng ý.

Về tài sản chung và công nợ: Anh xác nhận vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 16-7-2018, tổ trưởng tổ dân phố số 5, phường N xác nhận vợ chồng chị T và anh T thường xuyên xảy ra cãi vã lẫn nhau. Nguyên nhân là do anh T không chịu tu trí làm ăn nên chị T đã đưa con về nhà bố mẹ ở. Nay chị T xin ly hôn tổ dân phố đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa chị T và anh T; đề nghị chấp nhận sự thỏa thuận của hai bên về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, bản sao đơn khởi kiện của chị T và toàn bộ tài liệu chứng cứ kèm theo. Anh T đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn năm 2010 tại Uỷ ban nhân dân phường N, thành phố N nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh T ham chơi, không tu trí làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con; từ khi chị T có thai ba tháng anh T đã bỏ nhà đi không ở cùng chị, khi chị sinh con anh T cũng không hỏi han quan tâm gì; vì vậy chị T đã đưa con về quê sinh sống, anh T cũng không đến thăm vợ con, vợ chồng sống ly thân nhiều năm không còn quan tâm gì đến nhau, nay chị T xin ly hôn, anh T cũng xác định tình cảm không còn nên đồng ý ly hôn. Chứng tỏ hôn nhân của chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được; vì vậy cần xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị T và anh T là phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Minh K, sinh ngày 08-12-2013. Chị T và anh T đều thống nhất giao con cho chị T nuôi dưỡng; hiện tại cháu K còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ, nên việc thỏa thuận của chị T và anh T là phù hợp nên được chấp nhận.

Việc cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên được ghi nhận.

[4] Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Chị T và anh T đều xác định không có, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55 và các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị T và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Chị Trần Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Minh K, sinh ngày 08-12-2013. Ghi nhận tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị T phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000122 ngày 05-7-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

Chị Trần Thị T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Văn T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 425/2018/HNGĐ-ST ngày 22/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:425/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về