TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH – TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 42/2021/HSST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2021/TLST – HS ngày ngày 30 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đỗ Xuân Q (tên gọi khác: Đỗ Văn Q, Đỗ Mạnh Q), sinh ngày: 15/5/1975; tại tỉnh Vĩnh Phúc Nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện S, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Đỗ Xuân L; mẹ đẻ: Phạm Thị S; vợ: Bùi Thị H; con: có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân:
+ Tại Quyết định số 76 ngày 20/10/2007, Công an thành phố Vĩnh Yên xử phạt hành chính đối với bị cáo về hành vi Trộm cắp tài sản, mức phạt 200.000đ (đã nộp ngày 20/10/2007);
+ Tại Bản án số 21/HSST ngày 16/8/2011, TAND huyện Sông Lô xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2013, án phí hình sự nộp ngày 21/10/2011);
+ Tại Bản án số 22/HSST ngày 30/5/2017, TAND huyện Sông Lô xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/02/2018, án phí hình sự nộp ngày 30/5/2017);
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn D – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).
- Người làm chứng: Ông Trần Xuân B, sinh năm 1965; nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh V, vắng mặt
- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Thành C, sinh năm 1963 nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh V, vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do bị nghiện chất ma túy nên khoảng 12 giờ ngày 14/4/2021, Đỗ Xuân Q đi bộ một mình từ nhà đến thị trấn Lập Thạch, rồi đi xe ôm đến khu vực cổng trường tiểu học xã Triệu Đề thuộc thôn Vọng Sơn, xã Triệu Đề, huyện Lập Thạch để tìm mua ma túy, sử dụng. Tại đây, Q gặp và hỏi mua được của một người đàn ông (Q không rõ tên, tuổi, địa chỉ của người này) 01 gói ma túy heroin với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, Q đúc gói ma túy này vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi đúc vào túi quần phía trước bên trái đang mặc. Sau đó, Q đi tìm địa điểm để sử dụng ma túy. Khi Q đi đến khu vực chợ xã Triệu Đề thuộc thôn Vọng Sơn, xã Triệu Đề, huyện Lập Thạch thì bị tổ công tác Công an xã Triệu Đề phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ: Tại túi quần phía trước bên trái của Q 01 vỏ bao thuốc Thăng Long bên trong có 01 gói nhỏ được bọc bằng giấy màu trắng bên trong chứa chất cục, bột màu nâu trắng, Q khai nhận là ma túy heroin của Q vừa mua được để sử dụng (niêm phong ký hiệu A1), 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.
Tại Bản kết luận giám định số 856/KLGĐ ngày 18/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “ Chất cục bột màu nâu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1561g (không kể bao bì) loại Heroine… Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm 0,1234g mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”…” Đối với người bán ma túy cho Q: Quá trình điều tra, bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể chỉ biết người này khoảng 30 tuổi, cao khoảng 1.63m, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại khu vực cổng trường tiểu học xã Triệu Đề nhưng không có người nào có đặc điểm như Q khai nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số: 46/CT-VKS-MT ngày 28 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố Đỗ Xuân Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với bị cáo Đỗ Xuân Q; giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Đỗ Xuân Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng vụ án; bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo: Bị cáo có trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết, gia đình thuộc hộ cận nghèo và tại phiên tòa các bị cáo thành khần khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, bị cáo rất hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Xuân Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 14/4/2021, tại khu vực chợ xã Triệu Đề thuộc thôn Vọng Sơn, xã Triệu Đề, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc tổ công tác Công an xã Triệu Đề phát hiện, bắt quả tang Đỗ Xuân Q đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1561g ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân. Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ vật chứng vụ án.
Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Xuân Q đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều luật quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...c) Heroine,...có khối lượng từ 0.1 gam đến dưới 5 gam” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; gây mất trật tự trị an ở địa phương; gây dư luận xấu trong nhân dân. Bên cạnh đó, bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, gây nghiện cho bản thân và kéo theo là các hậu quả xấu cho sức khỏe bản thân, kinh tế gia đình sa sút và ảnh hưởng đến xã hội, hơn nữa ma túy là nguồn gốc nảy sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật v.v.... Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu: năm 2007, Công an thành phố Vĩnh Yên xử phạt hành chính đối với bị cáo về hành vi Trộm cắp tài sản; năm 2011, TAND huyện Sông Lô xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; năm 2017, TAND huyện Sông Lô xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Mặc dù, bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn cố ý vi phạm, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử lưu động công khai tại khu dân cư là cần thiết, có tác dụng tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, giữ vững an ninh tại địa phương.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, điều kiện nhân thân, hoàn cảnh, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, song dù giảm nhẹ cũng cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ về hành vi bị cáo đã thực hiện như mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[3] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo thấy rằng, bị cáo là người nghiện ma túy; không có công ăn việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
Mẫu A1 = 0,1234g heroine và toàn bộ bao goi hoàn lại sau giám định là chất câm lưu hanh nên cân tich thu tiêu huy.
Đối với 01 bơm kim tiêm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Q, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại khu vực cổng trường tiểu học xã Triệu Đề nhưng không có người nào có đặc điểm như Q khai nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau là có căn cứ.
Đối với người lái xe ôm chở Q xuống xã Triệu Đề, Quý khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, xử lý trong vụ án này là phù hợp.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Xuân Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Xuân Q 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/4/2021).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: Mẫu A1 = 0,1234g heroine và toàn bộ bao goi hoàn lại sau giám định và 01 bơm kim tiêm không còn giá trị sử dụng.
(Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2021).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo phải chịu 200.000đồng phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 42/2021/HSST ngày 13/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 42/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về