Bản án 42/2021/HS-ST ngày 01/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 01/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/ QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn S, sinh ngày 01/01/1987, tại K, T, L; Nơi ĐKHKTT: Bản Đô, xã K, huyện T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 0/12; Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn L, (đã chết) và con bà Lò Thị L, sinh năm 1925; có vợ là Lò Thị È, sinh năm 1988 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Lò Văn T, sinh ngày 15/6/1999, tại C, M, S; Nơi ĐKHKTT:

Bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 06/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn P, sinh năm 1978 và con bà Lò Thị L, (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/6/2016 bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; ngày 05/02/2018 bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn S: Ông Đặng Văn Quảng, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T: Ông Cầm Trọng Thủy, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lò Thị Tủ, sinh năm 1991. Địa chỉ: Bản Đ, xã K, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 15/11/2020 Công an đồn C, huyện M phát hiện, bắt quả tang Lò Văn S đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng nghi là Heroine tại khu vực bản N, xã C, huyện M. Quá trình bắt giữ Lò Văn S khai nhận là Heroine của Lò Văn S và Lò Văn T cùng đi mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ:

01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng do Lò Văn S tự giác giao nộp và khai là Heroine.

01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 25T1-112.34, số khung RLHJA3909HY283629, số máy JA39E0283662, xe đã qua sử dụng.

Ngày 16/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M và Viện kiểm sát nhân dân huyện M tiến hành bóc mở niêm phong và cân tịnh vật chứng thu giữ khi bắt quả tang. Kết quả: Gói nilon màu trắng có khối lượng 0,15 gam, lấy hết 0,15 gam làm mẫu giám định ký hiệu ST. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định số 129.

Tại Kết luận giám định số 1688 ngày 19/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: Mẫu gửi giám định ST là chất ma túy; loại Heroine; Đồng thời hoàn lại mẫu ST = 0,08 gam Heroine do không sử dụng đến trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, Lò Văn S và Lò Văn T khai nhận: Sáng ngày 15/11/2020 Lò Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25T1-112.34 đến nhà Lò Văn S ở bản Đ, xã K, huyện T, tỉnh Lai Châu để rủ S đi làm thuê ở tỉnh Hòa Bình. S đồng ý và điều khiển xe chở T đi tìm người đi làm thuê cùng. Trên đường đi S rủ T vào bản Đ, xã C, huyện M hỏi mua ma túy về cùng sử dụng, T đồng ý. S điều khiển xe chở T đến nhà một người đàn ông tên C ở bản Đ, xã C. Khi đến cách cửa nhà C khoảng 10m, S dừng xe lại bảo T đứng chờ, còn S vào nhà C và hỏi mua được 01 gói Heroine với số tiền 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy S tự ý dùng tay tách lấy một phần Heroine ra để sử dụng bằng hình thức đốt hít tại gian bếp của nhà C. Sử dụng xong S gói chỗ Heroine còn lại vào giấy gói ban đầu và cầm trong tay phải rồi điều khiển xe chở T đi về. Trên đường về T hỏi xin sử dụng ma túy cùng, S đồng ý và bảo về nhà sẽ cho T cùng sử dụng. Sau đó khi S và T về đến bản N, xã C, huyện M thì bị phát hiện bắt quả tang.

Đối với Sùng A C, sinh năm 1989, trú tại bản Đ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, theo lời khai của Lò Văn S là người đã bán ma túy cho Lò Văn S vào ngày 15/11/2020. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã tiến hành triệu tập Sùng A C đến làm việc, tuy nhiên C có thái độ né tránh, hiện tại C không có mặt tại địa phương, không ai biết C đi đâu, làm gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã tách hành vi của Sùng A Ć để tiến hành xác minh, giải quyết khi đủ căn cứ.

Tại đơn đề nghị và lời khai trong hồ sơ vụ án, chị Lò Thị T xác định: Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 25T1- 112.34, số khung RLHJA3909HY283629, số máy JA39E0283662, xe đã qua sử dụng là tài sản của anh Lò Văn T anh trai chị, anh Lò Văn T đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản đã ủy quyền cho chị được quản lý, sử dụng xe (việc ủy quyền có lập văn bản, được chứng thực tại UBND xã K, huyện T, tỉnh Lai Châu). Việc bị cáo T sử dụng xe để tàng trữ trái phép chất ma túy chị không biết, đề nghị được trả lại chiếc xe.

Tại Bản cáo trạng số 15/CT-VKSML ngày 08/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Lò Văn S từ 20 tháng đến 26 tháng tù giam; Xử phạt Lò Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo không có tài sản.

Đối với vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở và mẫu hoàn lại sau giám định, có khối lượng ST = 0,08 gam Heroine);

01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì cũ + 01 mảnh nilon màu trắng).

Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Thị T: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 25T1-112.34, số khung RLHJA3909HY283629, số máy JA39E0283662, xe đã qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Đề nghị miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T khẳng định các bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì các bị cáo là người dân tộc sống ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đối với bị cáo S có bố đẻ được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, và tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, tự giác giao nộp ma túy khi bị bắt, do đó đề nghị cho bị cáo Sương được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo T là người không góp tiền, không trực tiếp đi mua ma túy, đề nghị xem xét xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Đề nghị miễn án phí và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, vì các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, tài sản không có giá trị lớn.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin miễn nộp tiền án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Thị T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ đã rõ, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án nên căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T thừa nhận: Ngày 15/11/2020 Lò Văn S, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,15 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Công an đồn C, huyện M phát hiện bắt quả tang.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, thông báo kết quả giám định vật chứng của vụ án, lời khai của người chứng kiến.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T đã thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do nghiện chất ma túy nên các bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,15 gam Heroine của các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, tội phạm các bị cáo thực hiện đã hoàn thành. Hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo là thuộc trường hợp nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương.

[4] Về tính chất đồng phạm: Bị cáo Lò Văn S là người khởi xướng, trực tiếp dùng tiền của bản thân thực hiện hành vi đi mua ma túy về sử dụng. Bị cáo Lò Văn T biết bị cáo Lò Văn S đi mua ma túy nhưng đã đồng ý, cung cấp phương tiện (xe máy) để bị cáo Sương đi mua ma túy, đóng vai trò người giúp sức. Các bị cáo đồng phạm giản đơn, cần căn cứ Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho các bị cáo, áp dụng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Riêng bị cáo Sương có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì, do đó bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Về nhân thân: Các bị cáo đều nghiện ma túy, chính quyền địa phương có nhận xét chưa chấp hành nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như quy ước, hương ước tại nơi cư trú. Riêng bị cáo Lò Văn T đã hai lần bị xét xử: Ngày 17/6/2016 bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; ngày 05/02/2018 bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành án xong vào ngày 07/10/2018, đến ngày 15/11/2020 bị cáo phạm tội mới nên thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích. Tuy nhiên các bị cáo thuộc trường hợp có nhân thân xấu.

[6] Về hình phạt Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo. Việc cách ly các bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để các bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của các bị cáo, các bị cáo nghiện chất ma túy, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, các bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét không áp dụng đối với các bị cáo.

[7] Đối với Sùng A C, sinh năm 1989, trú tại bản Đ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, theo lời khai của Lò Văn S là người đã bán ma túy cho Lò Văn S, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã tách hành vi của Sùng A Ć để tiến hành xác minh, giải quyết khi đủ căn cứ là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về vật chứng của vụ án:

01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở và mẫu hoàn lại sau giám định, có khối lượng ST = 0,08 gam Heroine); 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì cũ + 01 mảnh nilon màu trắng). Là của bị cáo dùng thực hiện tội phạm, và là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 25T1-112.34, số khung RLHJA3909HY283629, số máy JA39E0283662, xe đã qua sử dụng. Là tài sản của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Thị T, chị Lò Thị T không biết việc bị cáo Lò Văn T sử dụng xe đi mua ma túy, cần trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Thị T.

[9] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định các bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa, người bào chữa cho các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T xin miễn nộp tiền án phí. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án, các bị cáo thuộc trường hợp được miễn tiền án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn S 22 (hai mươi hai) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam giữ (ngày 16/11/2020).

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 20 (hai mươi) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam giữ (ngày 16/11/2020).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong gửi mẫu giám định đã bóc mở và mẫu hoàn lại sau giám định, có khối lượng ST = 0,08 gam Heroine); 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì cũ + 01 mảnh nilon màu trắng).

Tuyên trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lò Thị T: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 25T1-112.34, số khung RLHJA3909HY283629, số máy JA39E0283662, xe đã qua sử dụng.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 01/3/2021. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HS-ST ngày 01/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về