Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 29/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 259/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị G, sinh năm 1979; HKTT: ấp B, xã M, huyện P, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Ông Vũ Văn T, sinh năm 1970; HKTT: ấp B, xã M, huyện P, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn ngày 07/6/2021, quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà G trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà G và ông T chung sống với nhau từ năm 1998, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã M vào ngày 25/02/2005. Sau thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc thì đến năm 2021, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thu n, bất đồng ý kiến, không hợp tính tình, không quan tâm chăm sóc l n nhau và đã sống ly thân từ tháng 01/2021 cho đến nay. Thấy mâu thu n giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng không còn tình cảm nên bà G làm đơn xin được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Có 04 con chung tên Vũ Mạnh T, sinh năm 1999, Vũ Đình V, sinh năm 2002, Vũ Thị Như Q, sinh ngày 12/4/2005 và Vũ Phước S, sinh ngày 03/11/2013. Khi ly hôn, bà G yêu cầu được nuôi con chung Vũ Thị Như Q và Vũ Phước S và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 4.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà G chỉ yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng (mỗi con 1.000.000 đồng) cho đến khi các con đủ 18 tuổi; thực hiện cấp dưỡng nuôi con từ tháng 12/2021. Đối với con chung Vũ Mạnh T và Vũ Đình V đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Chứng cứ nguyên đơn bà G giao nộp: Bản chính đơn xin ly hôn ngày 07/6/2021 của nguyên đơn; 01 bản chính giấy chứng nhận kết hôn; 04 bản sao giấy khai sinh của con chung; bản tự khai ngày 07/6/2021 và ngày 15/9/2021 của nguyên đơn.

Ngoài ra, bà G không cung cấp chứng cứ hay ý kiến gì khác.

* Theo biên bản lấy lời khai ngày 09/9/2021, bị đơn ông T trình bày:

Ông T và bà G là vợ chồng có 04 con chung tên Vũ Mạnh T, sinh năm 1999, Vũ Đình V, sinh năm 2002, Vũ Thị Như Q, sinh ngày 12/4/2005 và Vũ Phước S, sinh ngày 03/11/2013. Các con chung đều do ông chăm sóc nuôi dưỡng. Quá trình chung sống, vợ chồng đôi khi cũng có cãi nhau. Hiện nay, ông T làm nghề cạo mủ cao su cho ba mẹ ruột và làm thêm ở ngoài với thu nhập hàng tháng là khoảng 5.000.000 đồng. Từ tháng 01/2021 cho đến nay, vợ chồng không còn ở chung với nhau. Đối với yêu cầu ly hôn của bà G thì ông T không đồng ý. Về tài sản chung và nợ chung thì ông T không tranh chấp do toàn bộ tài sản không có công sức đóng góp của bà G.

* Quá trình tiến hành tố tụng ý kiến của 02 con chung:

- Ý kiến của Vũ Thị Như Q: Nếu ba mẹ ly hôn thì em Q muốn ở chung với mẹ là bà Phạm Thị G.

- Ý kiến của Vũ Phước S: Nếu ba mẹ ly hôn thì em S muốn ở chung với mẹ là bà Phạm Thị G.

* Xác minh và làm việc của Tòa án:

- Ngày 09/9/2021, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã tiến hành xác minh, cụ thể như sau:

+ Xác minh tại chính quyền địa phương (trưởng ấp), xác định: Ông T và bà G là vợ chồng sinh sống tại ấp B, xã M. Quá trình chung sống tại địa phương thì bà G và ông T là người nóng tính, vợ chồng đôi lúc có cãi nhau to tiếng. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân từ tháng 01/2021 cho đến nay. Ông T thì làm nghề cạo mủ cao su và làm thêm ở ngoài.

+ Xác minh tại nhà mẹ ruột ông T: Vợ chồng bà G, ông T chung sống bên cạnh nhà tôi. Bà G thì cư xử không khéo léo, hay cự cãi ba mẹ chồng và chồng. Lý do ly hôn là vợ chồng có lối sống khác nhau và bà G không quan tâm chăm sóc chồng con.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng có ý kiến:

Quá trình tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các bên đương sự. Tại phiên tòa, đã có mặt nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt nên đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn và giao con chung cho nguyên đơn được trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con chung 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Sau khi nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định,

[1] Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà G có mặt. Bị đơn ông T có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử, căn cứ quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định.

[2] Nguyên đơn bà G khởi kiện tranh chấp ly hôn và nuôi con chung đối với bị đơn ông T, ông T có hộ khẩu thường trú tại ấp B nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng và quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Theo đơn xin ly hôn ngày 07/6/2021, bà G khởi kiện ly hôn đối với ông T với các yêu cầu: Ly hôn; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Vũ Thị Như Q và Vũ Phước S và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 4.000.000 đồng; không tranh chấp về tài sản chung và nợ chung. Quá trình tố tụng, bà G giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn, nuôi con chung, đối với việc cấp dưỡng nuôi con, bà G thay đổi mức cấp dưỡng, chỉ yêu cầu 2.000.000 đồng/tháng/hai con. Ông T không đồng ý ly hôn và không có ý kiến về con chung.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà G:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà G và ông T chung sống với nhau từ năm 1998 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện P vào ngày 25/02/2005. Hôn nhân giữa bà G và ông T đã thực hiện đúng thủ tục quy định nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Quá trình chung sống, bà G và ông T xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng đều là người nóng tính, không thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc nhau, hiện vợ chồng không còn tình cảm, đã sống ly thân từ tháng 01/2021 cho đến nay. Thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng không còn tình cảm nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà G được ly hôn với ông T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà G với ông T có có 04 con chung tên Vũ Mạnh T, sinh năm 1999, Vũ Đình V, sinh năm 2002, Vũ Thị Như Q, sinh ngày 12/4/2005 và Vũ Phước S, sinh ngày 03/11/2013. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, bà G yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Vũ Thị Như Q, Vũ Phước S và cháu Q, cháu S cũng có nguyện vọng được sống cùng với mẹ nên Hội đồng xét xử giao cho bà G được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4.3] Về cấp dưỡng: Tại phiên tòa, bà G thay đổi yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con chung từ 4.000.000 đồng/tháng xuống 2.000.000 đồng/tháng, đây là sự tự nguyện của bà G nên được Hội đồng xét xử ghi nhận. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, thì cha không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chưa thành niên. Ông T không trực tiếp nuôi dưỡng con chung thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Hiện nay, ông T có thu nhập ổn định hàng tháng là 5.000.000 đồng. Căn cứ vào tình hình thực tế với mức sống trung bình tại địa phương thì mức cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi là phù hợp với khả năng kinh tế của ông T nên được chấp nhận.

[4.4] Về tài sản chung: Bà G xác định tự thoả thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4.5] Về nợ chung: Bà G không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng về quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa cũng như nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Bà G phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và ông T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 19, 53, 56, 81, 82, 83, 84, 85, 107 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Phạm Thị G và ông Vũ Văn T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị G được ly hôn với ông Vũ Văn T.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Bà Phạm Thị G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Vũ Thị Như Q, sinh ngày 12/4/2005 và Vũ Phước S, sinh ngày 03/11/2013 cho đến khi hai con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

Ông Vũ Văn T phải có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng), mỗi con 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Thực hiện cấp dưỡng nuôi con từ tháng 12/2021.

Đối với con chung Vũ Mạnh T và Vũ Đình V đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà G có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông T không thực hiện việc cấp dưỡng nêu trên, thì hàng tháng ông T còn phải chịu tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị G không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí:

- Bà Phạm Thị G phải chịu toàn bộ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0057967 ngày 02/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

- Ông Vũ Văn T phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 29/9/2021).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

4. Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 29/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về