Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CÁT, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021 về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị T, SN: 1995 Trú tại: thôn T, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định

- Bị đơn: Anh Bùi Văn Th, SN: 1994 Trú tại: thôn M, xã C, huyện Ph, Bình Định (Chị T có mặt, anh Th vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị Đỗ Thị T trình bày:

Chị với anh Bùi Văn Th kết hôn có tìm hiểu và trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 30/01/2015 tại UBND xã C, huyện P. Cuộc sống vợ chồng lúc đầu hạnh phúc nhưng đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và cũng từ thời gian này vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, sống không hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn Th.

Chị với anh Bùi Văn Th có 01 người con chung tên là Bùi Minh K, sinh ngày:

29/6/2015. Hiện nay sức khỏe cháu K phát triển bình thường và đang ở với chị nên khi ly hôn chị xin nhận nuôi cháu K. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Bùi Văn Th vắng mặt.

*Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Chứng cứ nguyên đơn cung cấp: Giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh cháu K, giấy chứng minh nhân dân chị T, sổ hộ khẩu.

- Chứng cứ Tòa án thu thập: Biên bản ghi lời khai chị T, biên bản xác minh tại Hội phụ nữ xã C, biên bản xác minh bà Phùng Thị T (là mẹ ruột anh Th).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Chị Đỗ Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn Th. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên yêu cầu khởi kiện của chị T được Tòa án chấp nhận.

Bị đơn anh Bùi Văn Th mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để trình bày lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham dự phiên tòa nhưng anh Th đều vắng mặt. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung tranh chấp:

[2.1]. Chị Đỗ Thị T với anh Bùi Văn Th tự nguyện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn vào ngày 30/01/2015 tại UBND xã C, huyện P nên quan hệ hôn nhân giữa chị T với anh Th được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2]. Theo nguyên đơn chị Đỗ Thị T trình bày, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và cũng từ thời gian này vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, sống không hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn Th.

[2.3]. Xét yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị T, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Đã là vợ chồng, lẽ ra chị Đỗ Thị T với anh Bùi Văn Th phải có nghĩa vụ quan tâm, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau, phải cùng có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Từ năm 2017 vợ chồng sống ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm để chung sống hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Th. Đối với bị đơn anh Bùi Văn Th nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án nhưng anh Th đều vắng mặt. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh bà Phùng Thị T (là mẹ ruột anh Th) thì được biết anh Th hiện nay đăng ký nhân khẩu thường trú và sinh sống cùng với gia đình bà tại thôn M, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định, vợ chồng chị T, anh Th xảy ra mâu thuẫn dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân. Anh Bùi Văn Th cố tình lẫn tránh, không chấp hành sự triệu tập của Tòa án nên anh Th phải gánh chịu hậu quả pháp lý từ việc không chấp hành sự triệu tập của Tòa án. Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị T với anh Th đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn Th là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình – 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[2.4]. Về con chung:

Chị Đỗ Thị T với anh Bùi Văn Th có 01 người con chung tên là Bùi Minh K, sinh ngày: 29/6/2015. Khi ly hôn chị T xin nhận nuôi cháu K. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét yêu cầu xin nuôi con của chị T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng phải xuất phát từ việc xem xét hoàn cảnh và điều kiện thực tế của người được trực tiếp nuôi con phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con để con được phát triển bình thường. Từ năm 2017 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị T đã dẫn cháu K bỏ đi về nhà cha mẹ chị T sinh sống, chị T vẫn đảm bảo cuộc sống của cháu K khi vợ chồng chị T không sống chung, cháu K đã quen với cuộc sống tại gia đình chị T, để tranh xáo trộn trong cuộc sống cháu K, Hội đồng xét xử giao cháu Bùi Minh K, sinh ngày: 29/6/2015 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5]. Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Các đương sự khôngyêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí DSST: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV, chị Đỗ Thị T phải chịu án phí ly hôn.

[4]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cát phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của chị T kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của Luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn anh Bùi Văn Th vắng mặt nên chưa chấp hành nghiêm quy định của pháp luật. Đồng thời, ý kiến của Kiểm sát viên về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị T về việc yêu cầu ly hôn anh Bùi Văn Th.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị T được ly hôn anh Bùi Văn Th.

1.2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Đỗ Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Minh K, sinh ngày: 29/6/2015. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ tài sản chung: Các đương sự khôngyêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Án phí DSST:

+ Án phí ly hôn: Chị Đỗ Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Tuy nhiên, chị T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số 00.... ngày ....... tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, nay được khấu trừ.

3. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt, thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 17/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cát - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về