TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 12 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 572/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/3/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Châu Thị Ánh T, sinh năm 1991;
Địa chỉ: Ấp 4A, xã Tân T, huyện C, tỉnh Long An. (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu C, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Ấp 4A, xã Tân T, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 28/9/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Châu Thị Ánh T trình bày: chị và anh C cưới nhau vào năm 2013, do tìm hiểu tự nguyện, sau đó có đăng ký kết hôn vào ngày 08/01/2013 tại UBND xã Tân T, huyện C, tỉnh Long An. Trong thời gian vợ chồng sống chung thường hay cãi vả do tính tình không hòa hợp, anh C không chăm lo làm ăn, chị khuyên anh C nhiều lần nhưng không kết quả dẫn đến mâu thuẩn vợ chồng ngày càng lớn và đã ly thân từ tháng 4/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, anh C cũng không có thiện chí hàn gắn với chị. Nay chị thấy không còn tình cảm với anh C, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu ly hôn với anh C.
Về nuôi con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thành D, sinh ngày 16/9/2013 và Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 17/11/2019, hiện cháu Danh đang sống với anh C và cháu Duyên đang sống với chị từ lúc vợ chồng ly thân đến nay. Khi ly hôn, chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi cháu Duyên, để anh C tiếp tục nuôi cháu Danh vì cháu Danh có nguyện vọng muốn sống với anh C, không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai, hiện tại chị có thu nhập và nơi sống ổn định đảm bảo điều kiện chăm sóc con chung. Về chia tài sản: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: vợ chồng không có nợ chung.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Hữu C, Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo phiên tòa hợp lệ nhưng anh C không nộp văn bản nêu ý kiến và cũng không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải, phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với anh Nguyễn Hữu C, Tòa án đã tống đạt các thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo phiên tòa sơ thẩm, thông báo hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng anh C không đến tham dự phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh C.
Vê quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vu án: Chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh C là quan hệ tranh chấp ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Chị Châu Thị Ánh T và anh Nguyễn Hữu C cưới nhau vào năm 2013, do tìm hiểu tự nguyện, sau đó có đăng ký kết hôn vào ngày 08/01/2013 tại UBND xã Tân T, huyện C, tỉnh Long An là hôn nhân hợp pháp.
[3]. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn theo chị T trình bày do trong quá trình chung sống vợ chồng tính tình không hòa hợp, không nhường nhịn nhau dẫn đến cãi vả, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, vợ chồng ly thân từ tháng 4/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không quan tâm đến nhau và không có thiện chí hàn gắn với nhau nên chị T yêu cầu ly hôn với anh C. Đối với anh C, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh C vẫn không đến Tòa án để giải quyết cho thấy anh C không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T .
[4]. Hội đồng xét xử xét thấy giữa chị T và anh C đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh C .
[5]. Về nuôi con chung: chị T và anh C có 02 con chung tên Nguyễn Thành D, sinh ngày 16/9/2013 và Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 17/11/2019, khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Duyên, để anh C tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Danh. Hội đồng xét xử xét thấy, trong thời gian vợ chồng ly thân đến nay anh C đang trực tiếp nuôi cháu Danh, chị T đang trực tiếp nuôi cháu Duyên, cả 02 con đang có cuộc sống ổn định, nguyện vọng của cháu Danh cũng muốn sống với anh C nên yêu cầu của chị T là phù hợp cần chấp nhận. Do các đương sự không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét, nếu sau này có phát sinh tranh chấp về việc cấp dưỡng nuôi con thì có quyền yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.
[6]. Về tài sản chung chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết và nợ chung chị T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.
[7]. Về án phí: chị T phải chịu án phí theo qui định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Châu Thị Ánh T về việc ly hôn đối với anh Nguyễn Hữu C.
Về hôn nhân: chị Châu Thị Ánh T được ly hôn với anh Nguyễn Hữu C.
Về nuôi con chung: chị T được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 17/11/2019, anh C được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thành D, sinh ngày 16/9/2013, không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai. Người không trực tiếp nuôi con được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
Về án phí: chị Châu Thị Ánh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0009137 ngày 04/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Long An, chị T đã nộp đủ án phí.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Về việc thi hành án: Trường hợp bản án, quýêt định đựơc thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quỳên thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 12/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung
Số hiệu: | 42/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về